Sergio Ramos García (phát âm tiếng Tây Ban Nha: [ˈseɾxjo ˈramoz ɣaɾˈθi.a]; sinh ngày 30 tháng 3 năm 1986) là một cầu thủ bóng đá người Tây Ban Nha. Anh thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Paris Saint-Germain tại Ligue 1 và Đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha.
Anh ấy chơi ở vị trí trung vệ cho Real Madrid trong 16 mùa giải, [3] nơi mà anh là đội trưởng trong sáu mùa giải. [4] [5] Ramos đã từng chơi ở vị trí hậu vệ phải trước đó trong sự nghiệp của mình. [6] Được biết đến với khả năng ghi bàn và kỹ năng lãnh đạo, anh được nhiều người coi là một trong những hậu vệ và đội trưởng vĩ đại nhất trong lịch sử thể thao.[7][8] [9][10] [11] [12] [13] [14]
Sau khi nổi lên trải qua lò huấn luyện và đào tạo trẻ của Sevilla và trải qua hai mùa giải với đội 1, Ramos chuyển đến Real Madrid vào mùa hè năm 2005. Kể từ đó, anh trở thành là trụ cột của Real Madrid, và đã giành được 22 thương hiệu lớn, gồm có 5 chức vô địch La Liga và 4 thương hiệu UEFA Champions League, trở thành một trong những tay săn bàn số 1 của La Liga từ vị trí phòng ngự. Anh ấy đóng vai trò quan trọng trong việc giành bốn chức vô địch UEFA Champions League, và luôn lọt vào trong Đội hình tiêu biểu vượt trội của những mùa giải đó. Anh cũng là người ghi bàn gỡ hòa quan trọng ở phút thứ 93 của Chung kết UEFA Champions League năm trước. [ 15 ] [ 16 ]
Ramos đã được chọn vào đội hình FIFPro World XI mười một lần, một kỷ lục cho một hậu vệ, và nhiều thứ ba mọi thời đại. Anh ấy cũng đã được bầu chọn vào UEFA Team of the Year 9 lần, cũng là kỷ lục cho một hậu vệ và nhiều thứ ba trong lịch sử. Ngoài ra, Ramos đã đạt kỷ lục Hậu vệ xuất sắc nhất La Liga năm lần. Năm 2021, anh gia nhập Paris Saint-Germain theo dạng chuyển nhượng tự do.
Bạn đang đọc: Sergio Ramos – Wikipedia tiếng Việt
Trên bình diện quốc tế, Ramos đã đại diện thay mặt cho Đội tuyển vương quốc Tây Ban Nha tại bốn kì World Cup và ba European Championships. Anh ấy đã giành được FIFA World Cup 2010 và UEFA European Championship vào những năm 2008 và 2012, được chọn vào đội hình All-Star Team vào năm 2010 và UEFA Euro Team of the Tournament vào năm 2012. Anh ấy đá trận tiên phong cho Tây Ban Nha ở độ tuổi 18 tuổi và vào năm 2013, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất của vương quốc có 100 lần khoác áo khoác áo đội tuyển. [ 17 ] Ramos hiện giữ kỷ lục là cầu thủ khoác áo nhiều nhất và là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ 8 mọi thời đại trong lịch sử vẻ vang của đội tuyển vương quốc Tây Ban Nha. Anh cũng giữ kỷ lục ghi nhiều trận thắng quốc tế nhất cho Tây Ban Nha với 131 trận thắng. [ 18 ]
Sự nghiệp câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
Ramos khởi đầu sự nghiệp ở vị trí hậu vệ cánh phải, đây cũng là vị trí thường trụ của anh trong thời kỳ đầu của sự nghiệp cầu thủ. Sau 2 năm chơi bóng tại La Liga, với Sevilla, anh bộc lộ được năng lực phòng thủ .
Real Madrid ký hợp đồng với Ramos sau khi giao cho Sevilla 27 triệu Euro vào mùa hè năm 2005 [ 19 ]. Cuộc chuyển nhượng ủy quyền biến anh thành cầu thủ dưới 20 tuổi có giá đắt thứ 3 sau Wayne Rooney. Tại Real, anh được mặc áo số 4, số áo của lịch sử một thời Fernando Hierro một thời .Ramos ghi bàn thắng tiên phong tại Champions League trong trận Real Madrid gặp Olympiakos, mà Real đã bị vượt mặt với tỉ số 2-1. Anh khởi đầu chơi ở vị trí trung vệ của Real, và còn được sử dụng như một tiền vệ phòng ngự, cánh phải ở 1 số ít trường hợp. Cho đến khi có sự Open của Christoph Metzelder và Pepe, Ramos chuyển sang cánh phải và giữ vững ở vị trí đó. Mùa giải 2006 – 07, anh đã có một màn trình diễn rất ấn tượng sau khi tạo thời cơ tốt cho Raúl ghi bàn vào lưới Barcelona tại Santiago Bernabéu, ngay phút thứ hai của trận đấu .
Ramos đã chứng tỏ khả năng ghi bàn của mình tại Madrid vào mùa giải sau với Real, khi ghi 20 bàn thắng trong màu áo Kền kền trắng. Vào một buổi trả lời phỏng vấn với Grada Blanca, anh tiết lộ rằng mình từng chơi ở vị trí tiền đạo khi còn nhỏ[20].
Vào 4 tháng 5 năm 2008, Ramos tạo thời cơ ghi bàn cho Gonzalo Higuain vào phút thứ 89, trong trận gặp Osasuna, đưa Real Madrid lên ngôi vô địch La Liga lần thứ 31 .Bàn thắng thứ 4 và thứ năm của mùa giải được Ramos ghi trong trận đấu cuối mùa với Levante mà Real đã thắng 5-2. Sergio Ramos từ đó đã có dự tính chơi ở Real Madrid cho đến hết sự nghiệp .Vào ngày 13 tháng 7 năm 2008, có tin rằng đội bóng Manchester United đã liên hệ với hậu vệ trẻ này. Anh phát biểu trên đài Radio Canal Sur : ” Đó là một thời cơ tốt để đến với câu lạc bộ lớn mà tôi luôn hâm mộ, nhưng vào thời gian này tôi không muốn bận tâm nhiều. Tôi có một hợp đồng dễ chịu và thoải mái với Madrid và tôi đang tập trung chuyên sâu cho đội tuyển vương quốc. Khi World Cup 2010 kết thúc, tôi mới quyết định hành động được. ” [ 21 ] .Ngày 17 tháng 6 năm 2021, CLB Real Madrid xác nhận Sergio Ramos đã chính thức nói lời chia tay với đội bóng sau 16 năm góp sức. [ 22 ]
Vào ngày 8 tháng 7 năm 2021, anh ký hợp đồng với Paris Saint-Germain cho đến ngày 24 tháng 6 năm 2023. Anh sẽ mang áo số 4 ở đội bóng mới như anh ấy đã mặc trong 16 năm của mình ở Real Madrid. [ 23 ]
Kỷ lục về kỷ luật[sửa|sửa mã nguồn]
Ramos giữ kỷ lục bị phạt thẻ đỏ nhiều nhất cho một cầu thủ Real Madrid (26 tính đến cuối năm 2019);[24][25] Tại La Liga anh đã bị đuổi ra khỏi sân 19 lần, vượt qua kỷ lục được Xavier Aguado và Pablo Alfaro giữ chung.[26]
Xem thêm: Tổng hợp áo đấu EURO 2021 của các ĐTQG
Sự nghiệp cấp quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Sergio Ramos trong màu áo đội tuyển Tây Ban Nha tại UEFA Euro 2012Vào năm 2004, Ramos là một trong những cầu thủ điển hình nổi bật của đội U21 Tây Ban Nha, chơi 6 trận quốc tế. Cho đến 26 tháng 3 năm 2005, năm 19 tuổi, tại Salamanca, anh trở thành cầu thủ trẻ nhất chơi cho đội tuyển Tây Ban Nha trong 55 năm trở lại, ở trận gặp Trung Quốc. Một ít lâu sau kỷ lục này đã bị phá vỡ bởi Cesc Fàbregas .Anh đã ghi dấu ấn trong sự nghiệp quốc tế của mình trong trận gặp Serbia và Montenegro, một trận đấu vòng sơ loại của World Cup 2006. Ramos được gọi vào đội tham gia World Cup 2006 vào 15 tháng 5 năm 2006, Bởi vì Míchel Salgado vắng mặt, anh trở thành lựa chọn tốt nhất ở vị trí hậu vệ cánh phải .Tại Euro 2008, anh là một cầu thủ điển hình nổi bật của đội tuyển, cùng với những cầu thủ trẻ khác, đã đưa Tây Ban Nha lần thứ 2 lên ngôi vô địch châu Âu sau khi vượt mặt Đức 1-0 .Vào ngày 27 tháng 5 năm 2018 ( giờ Nước Ta ), Sergio Ramos đã có trường hợp khóa tay cầu thủ Liverpool là Mohamed Salah trong trận chung kết UEFA Champions League 2018 và buộc cầu thủ đó phải rời sân vì chấn thương vai. Các bác sĩ ở Liverpool xác nhận thủ môn Karius bị chấn thương vùng đầu sau pha giật cùi chỏ của anh trong trận đấu tại Kiev. Không loại trừ đây hoàn toàn có thể là nguyên do khiến anh tranh tài thiếu tập trung chuyên sâu và liên tục mắc sai lầm đáng tiếc trong hiệp hai. Bác sĩ Ross Zafonte ở Boston, Mỹ cho biết : ” Sau buổi kiểm tra tổng lực, chúng tôi xác nhận Karius phải tranh tài với chấn thương vùng nguồn vào ngày 26/5. Cậu ấy có triệu chứng rối loạn thị giác gây tác động ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực chơi bóng “. [ 27 ]
- Tính đến 16 tháng 3 năm 2021[28][29]
Câu lạc bộ
Giải đấu
Mùa giải
La Liga
Cup1
Châu Âu
Khác2
Tổng cộng
Số lần ra sân
Số bàn thắng
Số lần ra sân
Số bàn thắng
Số lần ra sân
Số bàn thắng
Số lần ra sân
Số bàn thắng
Số lần ra sân
Số bàn thắng
Sevilla
La Liga
2003–04
7
0
0
0
0
0
0
0
7
0
2004–05
31
2
5
0
5
1
0
0
41
3
2005–06
1
0
0
0
0
0
0
0
1
0
Tổng cộng
39
2
5
0
5
1
0
0
49
3
Real Madrid
2005–06
33
4
6
1
7
1
0
0
46
9
2006–07
33
5
3
0
6
1
0
0
42
6
2007–08
33
5
5
1
7
0
0
0
45
10
2008–09
32
4
2
1
8
1
0
0
42
9
2009–10
33
4
0
0
7
0
0
0
40
6
2010–11
31
3
7
1
8
0
0
0
46
6
2011–12
34
3
6
0
11
1
0
0
51
6
2012–13
26
4
5
0
9
1
0
0
40
5
2013–14
32
4
8
0
11
3
0
0
51
4
2014–15
27
4
4
1
8
0
3
2
42
3
2015–16
23
2
0
0
10
1
—
33
3
2016–17
28
7
3
1
11
1
2
1
44
3
2017–18
26
4
1
0
11
1
4
0
42
3
2018–19
28
6
6
3
5
0
3
2
42
11
2019–20
35
11
2
0
5
2
2
0
44
13
2020–21
15
2
0
0
4
2
1
0
20
4
Tổng cộng
469
72
48
7
128
15
25
7
670
101
Tổng cộng sự nghiệp
534
76
53
7
134
16
25
7
746
106
1 Bao gồm Supercopa de España.
2 Bao gồm UEFA Super Cup và FIFA Club World Cup.
Đội tuyển vương quốc[sửa|sửa mã nguồn]
- Tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2021[30]
Năm
Số lần ra sân
Số bàn thắng
2005
7
2
2006
13
0
2007
10
2
2008
15
0
2009
11
0
2010
16
1
2011
10
1
2012
16
2
2013
17
1
2014
9
1
2015
6
0
2016
9
0
2017
9
3
2018
13
4
2019
9
4
2020
8
2
2021
2
0
Tổng cộng
180
23
Bàn thắng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]
Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]
U-19 Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]
- Giải vô địch bóng đá U-19 châu Âu: 2004
Tây Ban Nha[sửa|sửa mã nguồn]
- Giải thưởng Antonio Puerta [31]
- ESM Team of the Year: 2007-08
- ESM Team of the Month: tháng 4.2007; tháng 5.2007, tháng 9.2007, tháng 10.2007, tháng 11.2007, tháng 12.2007, tháng 1.2008
- UEFA Team of the Year: 2008, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2020
- FIFPro World XI: 2008, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2020
Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]
Xem thêm: Arsenal F.C. – Wikipedia tiếng Việt