Hatsune Miku – Wikipedia tiếng Việt

Hatsune Miku ( 初音 (はつね) ミク, Hatsune Miku?) là một chương trình tổng hợp giọng hát, được phát triển bởi Crypton Future Media, sử dụng kết hợp với chương trình Vocaloid 2 của Yamaha Corporation. Cái tên Hatsune Miku được tạo ra bằng cách ghép các từ tiếng Nhật là đầu tiên (初, hatsu), âm thanh (音, ne), và tương lai (ミク, miku[a]). Điều này tượng trưng cho ý muốn của Crypton rằng cô sẽ là “âm thanh đầu tiên đến từ tương lai”. Cô là Vocaloid thứ 2 được phát hành cho hệ thống Vocaloid 2 và là Vocaloid đầu tiên sử dụng phiên bản tiếng Nhật của hệ thống này. Giọng cô được tạo bởi một diễn viên lồng tiếng của Nhật tên là Saki Fujita và được chỉnh sửa. Hatsune Miku đã từng biểu diễn trên sân khấu với công nghệ Hologram[2].

Sau khi có được công nghệ tiên tiến Vocaloid 2 của Yamaha Corporation, Crypton Future Media đã khởi đầu tăng trưởng Vocaloid thứ ba của họ. Giọng của Hatsune Miku được lấy từ diễn viên lồng tiếng Saki Fujita đã qua chỉnh sửa và chia ra những âm riêng không liên quan gì đến nhau. Các âm này sau đó được kiểm soát và điều chỉnh cao độ và trường độ rồi nối lại thành từ và câu hoàn hảo. Cao độ của những âm được kiểm soát và điều chỉnh bởi chính chương trình tổng hợp Vocaloid 2, với giao diện của một dãy phím đàn. Crypton phát hành nhân vật tiên phong trong sêri ” Character Vocal Series “, Hatsune Miku, vào ngày 31/8/2007, với sáng tạo độc đáo rằng Miku sẽ là ” một thần tượng ảo trong một tương lai gần mà tại đó những bài hát bị quên lãng ” [ 3 ] .Vào 30/4/2010, bản tăng cấp của Hatsune Miku được phát hành, gọi là ” Hatsune Miku Append “, gồm 6 thư viện giọng khác của Miku là Soft ( nhẹ nhàng, thanh nhã ), Sweet ( ngọt ngào, trẻ con ), Dark ( già dặn, trì trệ dần ), Vivid ( tươi tắn ), Solid ( to, rõ ràng ), và Light ( ngây thơ, thánh thiện ). ” Miku Append ” được tạo ra để lan rộng ra thư viện giọng hát của Miku, và cần chương trình gốc ( Vocaloid 2 ) được thiết lập trên máy tính trước. Đây là lần tiên phong một Vocaloid có sự phát hành như thế này, và nhiều phiên bản Append của những Vocaloid khác được Crypton tăng trưởng sau đó .

Ngày 31/8/2013, phiên bản tiếng Anh đầu tiên của Hatsune Miku được phát hành dưới tên “Hatsune Miku V3 English”. Đây cũng là lần đầu tiên Crypton Future Media giới thiệu Piapro Studio (một VSTi có chức năng tương tự Vocaloid Editor của Yamaha).

Ngày 26/9/2013, Hatsune Miku V3 được phát hành với 5 thư viện là Original, Sweet, Dark, Soft, Solid .Ngày 31/8/2016, phiên bản nâng cấp cải tiến thứ tư của Hatsune Miku gọi là ” Hatsune Miku V4X ” đã được phát hành. Phiên bản gồm có bốn loại giọng : Original – Power, Solid – Power, Soft – Whisper và Dark – Whisper. Ở phiên bản này, english voicebank cũng đã được cải tổ đáng kể. Phiên bản V4X được phát hành vào đúng ngày kỉ niệm sinh nhật lần thứ 9 của cô .Tháng 12/2016, Chinese voicebank của cô đã chính thức được ra mắt tại 2 buổi concert của sự kiện Miku Expo In China năm nay được tổ chức triển khai ở Thượng Hải và Bắc Kinh và đã được chính thức phát hành vào tháng 8/2017 .

Vào ngày 31 tháng 8 năm 2019,công ty Crypton có thông báo rằng cô cùng với các Vocaloid của công ty đã ngừng phát triển trên nền tảng VOCALOID của Yamaha và sẽ được phát triển trên 1 Synthesizer độc lập của chính công ty dựa trên Piapro Studio (ピ ア) – một VSTi được sản xuất và phát triển bởi Crypton trước đó,tuy nhiên mối quan hệ với Yamaha vẫn tiếp tục phát triển.

23/12/2019, phát hành bản update Hatsune Miku V4 Chinese Update, khắc phục những lỗi ở bản Miku V4C cũ .Ngày 25/12/2019, Công ty Crypton Future Media đã có thông tin chính thức về phiên bản mới của ứng dụng tổng hợp giọng hát Hatsune Miku với tên gọi là Hatsune Miku NT ( New Type ). Cụ thể đây là phiên bản tiên phong của Miku sẽ không chạy trên nền tảng Vocaloid như trước nữa và sẽ được bày bán vào khoảng chừng cuối tháng 8/2020 ( với bản beta ra đời vào giữa tháng 3/2020 ) .
Mặc dù được tăng trưởng bởi Yamaha, phần tiếp thị của từng Vocaloid được để lại cho những studio tự thực thi. Yamaha triển khai vai trò tiếp thị chính ứng dụng Vocaloid, tiêu biểu vượt trội cho hoạt động giải trí này là rôbốt HRP-4C đã được trình làng là sự tiếp nối đuôi nhau ba Vocaloid – Hatsune Miku, Megpoid và trình Vocaloid thử nghiệm của Crypton ” CV – 4C β ” – như một phần của sự quảng cáo cho cả Yamaha và HRP-4C ở CEATEC vào năm 2009. Những tờ tạp chí ở Nhật như tạp chí DTM giữ vai trò trình làng và tiếp thị những Vocaloid đến những Vocaloid fans. Tờ báo đã từng đề cập đến nhiều Vocaloid như Hatsune Miku, cặp đôi bạn trẻ Kagamine Rin và Kagamine Len, và Megurine Luka, đồng thời in lên nhiều ấn phẩm của họa sỹ Kei và thông tin những thông tin mới nhất về VocaloidCrypton đã góp phần rất nhiều trong việc quảng cáo những nhân vật của họ, đơn cử như Hatsune Miku, đã có nhiều sự tương quan đến mẫu GT300 của dòng xe Super GT từ năm 2008 với sự tương hỗ của Good Smile Racing ( một nhánh của Good Smile Company ), hầu hết hoạt động giải trí ở những mẫu sản phẩm tương quan đến xe, đặc biệt quan trọng là những miếng dán cho xe itasha ( những chiếc xe được dán những hình ảnh của nhân vật anime ). Mặc dù Good Smile Company không phải là công ty tiên phong mang văn hóa truyền thống anime đến với dòng Super GT, công ty này tách biệt ra bởi việc nhấn mạnh vấn đề vào itasha .Từ giải đấu năm 2008, đã có 3 đội đua nhận quảng cáo của Good Smile Racing, và sơn lại xe của họ thành những hình ảnh của Vocaloid

  • Studie, tham gia vào giải năm 2008 và 2009 sử dụng xe BMW Z4 E86. Xe của họ được sơn hình của Hatsune Miku và nhiều phiên bản khác của Miku ở một số giải đua năm 2009
  • Đội MOLA, sử dụng xe Nissan 350Z, và họ nhận quảng cáo ở cuộc đua cuối của giải năm 2008. Hình của Kagamine Rin và Len được thêm vào xe của họ. Vòng đua ở Fuji thực tế là cuộc đua duy nhất của FIA với hai chiếc itasha đặc biệt cùng tham dự.
  • Đội COX, tham gia vào giải 2010, sử dụng xe Porsche 996 GT3 RSR (và sẽ sử dụng chiếc Porsche 997 GT3-R). Xe của họ được in hình ảnh phiên bản Racing Miku (một phiên bản chính thức của Miku trong bộ Race Queen màu cam)

Song song với việc lấn sang những chiếc xe GT, Crypton còn kiến thiết xây dựng website piapro. Crypton thậm chí còn mở màn tiếp thị Miku cho Toyota Corolla và Google Chrome. Trong năm 2011 và 2012, tại Sapporo Snow Festival, một chiếc xe điện đã được in trọn vẹn bởi hình ảnh của Hatsune Miku từ trong ra ngoài, và với lời công bố được thu lại bởi Saki Fujita .
Doanh thu khởi đầu của Hatsune Miku cao đến nỗi Crypton không hề theo kịp nhu yếu. Trong 12 ngày đầu phát hành, gần 30000 bản đã được bán ra, được gọi là ” số lượng không tưởng ” bởi Wataru Sasaki – người chịu nghĩa vụ và trách nhiệm lên kế hoạch và tạo ra những ” giật mình ” của công ty. Vào tháng 12 năm 2007, Amazon. co.jp thông tin lệch giá của Hatsune đoạt hơn 57 triệu yên, trở thành mẫu sản phẩm chạy nhất của Amazon .

Chương trình thêm[sửa|sửa mã nguồn]

Để tương hỗ đồ họa 3D, chương trình MMD được tăng trưởng như một chương trình độc lập. Chương trình không lấy phí này đã tạo một sự bùng nổ số những nhân vật được phong cách thiết kế bởi fan, cũng như tăng cường tiếp thị cho chính những bài hát Vocaloid. Một chương trình khác được tăng trưởng là VocaListener, một ứng dụng được cho phép tạo ra những bài hát Vocaloid giống giống như thật .

Phiên bản tiếng Anh của Hatsune Miku được thực hiện và ra mắt ngày 26/10/2013 với phiên bản Miku V3 Vivid

Phiên bản tiếng Trung của Miku được phát hành trong tháng 9 năm 2017 là Hatsune Miku V4 Chinese dành cho thị trường Trung Quốc .
Giao diện trình chỉnh sửa và biên tập của Hatsune Miku, dựa trên Vocaloid .Trong tiến trình tăng trưởng Miku, Crypton quyết định hành động đi theo một con đường khác với những con đường đã được sử dụng bởi những nhà phát hành Vocaloid khác. Crypton quyết định hành động rằng để mẫu sản phẩm thành công xuất sắc không chỉ cần một giọng hát hoàn hảo được tăng trưởng, mà giọng hát đó còn cần một hình ảnh. Theo con đường này, đối tượng người tiêu dùng của Crypton biến hóa từ những studio chuyên nghiệp đến những tầng lớp đại chúng, đặc biệt quan trọng là giới trẻ [ 4 ] .Nhiệm vụ tạo hình cho Miku được phó thác cho họa sỹ Kei Garō. Khi Kei tạo ra Miku, anh chỉ theo một hướng đi rằng cô ấy là một android và màu đặc trưng của cô ( dựa trên màu của loài rùa xanh, đặc trưng của ứng dụng Vocaloid 2 ). Thiết kế cho váy và giày của Miku dựa trên màu của ứng dụng và những cột biểu lộ chính những cột ở trong ứng dụng. Vốn dĩ Miku có kiểu tóc khác, nhưng sau đó Kei chuyển hẳn qua kiểu bím tóc sau khi vẽ thử. Crypton sau đó chính thức công bố thông tin về Miku, tuy nhiên chỉ có những thông tin về ngoại hình của Miku được công bố. Crypton không đi vào phần tính cách của Miku vì muốn chính những người sản xuất nhạc và những fan hoàn toàn có thể tự mình tạo nên tính cách tương thích nhất cho cô ấy. Ngoài việc phiên bản chibi của cô với tên ” Hachune Miku ” cầm cọng hành trong video nhạc Ievan Polkka, công chúng còn thấy Hachune Miku nhiều nhất trong đoạn video phim hoạt hình có tên ” Chibi Miku – san ” ( ちびミクさん ) và bộ truyện tranh 4 ô vuông cùng tên .Chibi Miku-san ( ちびミクさん ) là sê-ri 4 koma ( kiểu truyện tranh 4 ô hình Nhật Bản ) trực tuyến được tạo bởi một nghệ sĩ tên là Minami trên Pixiv. Nó kể chi tiết cụ thể về đời sống hàng ngày vui nhộn của Chibi-Miku và những đồng nghiệp của cô ấy. Một mẩu truyện mới được phát hành gần như mỗi ngày và hàng loạt loạt phim hiện đã đạt tới 500 tập ngắn. Một đoạn phim hoạt hình và mẩu truyện tranh vẽ tay đã được phát hành trên Nico Nico Douga bởi yokkaP ( よっかP ) .

Tên Hatsune Miku[5][6]
Ngày sinh 31 tháng 8
Tuổi 16
Cung Xử Nữ
Chiều cao 1m59
Vật tượng trưng Cây hành lá
Suggested Genre Pop/Dance
Suggested Tempo Range 70–150bpm
Suggested Vocal Range A3–E5

Ảnh hưởng đến văn hóa truyền thống[sửa|sửa mã nguồn]

Hình ảnh Hatsune Miku trên đường phố AkihabaraNico Nico Douga, một trang web giống với Youtube, đóng vai trò cơ bản trong sự phổ cập của Vocaloid. Rất nhanh gọn sau khi Miku được phát hành, người dùng trên NND mở màn đăng những bài hát được tạo ra từ giọng của cô. Theo Crypton, một video nổi tiếng với ” Hachune Miku ” ( một phiên bản tí hon của Miku ) cầm một cây hành và hát ” Ievan Polkka ” ( dẫn đến việc cây hành trở thành đặc trưng của Miku ), biểu lộ tiềm năng rất lớn của ứng dụng trên nghành đa phương tiện [ 7 ]. Cùng với sự nổi tiếng của Miku ngày càng tăng lên, Nico Nico Douga trở thành một điểm đến cho sự hợp tác cùng phát minh sáng tạo. Những bài hát nổi tiếng trở thành nền tảng cho những hình ảnh, video ở 2D và 3D, hay được remix bởi những người dùng khác. Một số người còn đăng lên những tác phẩm chưa triển khai xong và xin quan điểm góp phần của mọi người [ 8 ] .Vào tháng 9/2009, ba mẫu figure của nhân vật ” Hatsune Miku ” được phóng lên trong một tên lửa từ Mỹ, mặc dầu nó không bay được ra ngoài khoảng trống [ 9 ] [ 10 ]. Vào cuối tháng 11/2009, đã có một ý kiến đề nghị để có một tấm nhôm ” Hatsune Miku ” ( 8 cm x 12 cm, 3.1 ” x 4.7 ” ) được dùng để cân đối khối lượng cho tàu du hành thiên hà Akatsuki [ 11 ] của Nhật Bản. Được mở màn bởi Sumio Morioka ( còn được biết đến là ” chodenzi-P ” ), dự án Bất Động Sản này nhận được sự ủng hộ của Dr. Seiichi Sakamoto của cơ quan điều tra và nghiên cứu và tăng trưởng hàng không thiên hà Nhật Bản ( JAXA ). Vào ngày 22/12/2009, đề xuất đã đạt được số lượng 10000 chữ ký thiết yếu để làm tấm nhôm. Vào 21/5/2010, vào lúc 06:58:22 ( JST ), Akatsuki được phóng lên, mang theo 3 tấm nhôm vẽ Hatsune Miku và Hachune Miku trong vài hình đen trắng, dưới dạng rất nhiều những chữ nhỏ được khắc lên đó. Hatsune Miku đã được lên trang bìa của ấn phẩm thứ 59 của tờ tạp chí ca nhạc và thời trang Clash tại Anh .Vào tháng 10/2011, Crypton đăng lên trang chủ của mình một lá thư của Bộ trưởng Tài chính cho sự ” góp phần vào sự tăng trưởng của truyền thông online “Vào ngày 28/6, Tập đoàn điện thoại thông minh Xiaomi của Trung Quốc thức ra đời phiên bản đặc biệt quan trọng Mi 6X, lấy cảm hứng từ Hatsune Miku với mức giá 7.3 triệu đồng. Ngoài ra, ứng với mỗi phiên bản Mi 6X Hatsune Miku Special Edition đều Open 1 mã số khác nhau được khắc đằng sau máy dưới logo MI .

Trên nghành nghề dịch vụ âm nhạc[sửa|sửa mã nguồn]

Cho đến tháng 8/2010, hơn 22,000 bài hát đã được viết cho Hatsune Miku. Sau đó thống kê trong năm 2011 cho thấy có 100,000 bài hát dưới tên cô [ 12 ]Album ” Exit Tunes Presents Vocalogenesis feat. Hatsune Miku “, là album tiên phong đứng hạng nhất trong bảng xếp hạng album trong tuần Oricon [ 13 ]. Ngoài ra còn có rất nhiều album khác như ” Supercell ” của nhóm Supercell [ 14 ], ” First Sound Story ” của 19 ’ s Sound Factory [ 15 ] và ” Re : Packaged ” của Livetune, và ” Re : MIKUS ” [ 16 ] .

Như là một thần tượng ảo, Hatsune Miku đã có buổi biểu diễn “live” đầu tiên của cô tại “Animelo Summer Live” ở Saitama Super Arena vào 22/8/2009[17]. Chuyến lưu diễn đầu tiên của cô là ở Singapore, vào 21/11/2009, trong sự kiện Anime Festival Asia (AFA)[18]. Miku có buổi biểu diễn riêng có tên “Miku no Kanshasai 39’s Giving Day” ở Zepp Tokyo tại Odaiba, Tokyo[19][20]. Miku biểu diễn tại Mỹ 2/7/2011 tại Nokia Theater ở L.A.Live trong lễ hội Anime Expo ở Los Angeles[21]. Hằng năm, cô đều có những chuyến lưu diễn trên khắp thế giới qua các lần live tại Magical Mirai (tổ chức tại nội địa Nhật Bản) và Miku Expo (tổ chức tại các nước trong khu vực và Phương Tây). Miku đã từng biểu diễn tại Việt Nam do 1 nhóm các bạn trẻ tên Vocaleek tổ chức. Tuy nhiên ở hiện tại nhóm đã ngừng hoạt động ở Việt Nam.

  1. ^ Miku là một tên gọi khác mang ý nghĩa “tương lai”,

    未来

    bình thường đọc là mirai.[1]là một tên gọi khác mang ý nghĩa ” tương lai “, thông thường đọc là

Source: thabet
Category: Game