Luis Enrique (cầu thủ bóng đá) – Wikipedia tiếng Việt

Luis Enrique, tên đầy đủ Luis Enrique Martínez García, (sinh 8 tháng 5 năm 1970 tại Gijon) là một cựu cầu thủ và hiện là huấn luyện viên của đội tuyển Tây Ban Nha.

Khi còn chơi bóng, ông nổi tiếng với sự nhanh gọn và hoàn toàn có thể chơi được toàn bộ những vị trí trong sự nghiệp bóng đá của mình, thậm chí còn là cả trung vệ hay là thủ môn. Tuy nhiên ông chơi tốt hơn cả với vai trò là tiền về TT, và đã ghi được nhiều bàn thắng trong sự nghiệp tranh tài của mình. Sau khi khởi đầu sự nghiệp của mình tại Sporting de Gijón năm 1989, ông gắn bó với cả hai câu lạc bộ lớn của Tây Ban Nha, tiên phong là Real Madrid từ năm 1991 – 96 và rồi chuyển sang FC Barcelona theo dạng chuyển nhượng ủy quyền tự do. Câu lạc bộ này không mấy tin yêu vào người mới của mình tuy nhiên ông đã nhanh gọn lấy được niềm tin của họ và chẳng bao lâu sau ông trở thành đội trưởng của Barcelona. Anh tranh tài cho Barca trong 8 năm ( 1996 – 2004 ). Ông chơi cho đội tuyển bóng đá vương quốc Tây Ban Nha ở 3 kỳ World Cup : 1994, 1998, 2002 và kỳ Euro 1996. Ông khoác áo đội tuyển những chú bò tót này 62 lần và ghi được 12 bàn thắng. Ông cũng là thành viên đội tuyển Tây Ban Nha giành huy chương vàng Olympic mùa hè 1992 ở Barcelona. Ngày 10 tháng 8 năm 2004, ông giải nghệ ở tuổi 34. [ 1 ] Vào tháng 3 năm 2004, anh được bầu vào list FIFA 100. [ 2 ]Năm 2008, Enrique là huấn luyện viên đội Barca B và giúp đội bóng này giành 2 Secunda Liga liên tục 2009 – 2010 và 2010 – 2011. Mối quan hệ thân thương của ông với người đồng đội cũ, Pep Guardiola – người cũng được chỉ định cùng lúc làm huấn luyện viên F.C. Barcelona vào năm 2008 và đưa đội bóng trở lại hình ảnh số một quốc tế – giúp cho đội Barca B và lò huấn luyện và đào tạo La Masia có được vô cùng nhiều khét tiếng trong việc huấn luyện và đào tạo trẻ và đưa họ lên đội hình 1 .

Năm 2011, quyết tâm đi tìm thử thách mới, Luis Enrique quyết định làm huấn luyện viên của A.S. Roma. Tháng 7 năm 2013, Enrique là huấn luyện viên của Celta Vigo. Tháng 6 năm 2014, Enrique trở thành huấn luyện viên của FC Barcelona.[3] Năm 2017, ông chia tay đội bóng sau khi vô địch cúp Nhà vua Tây Ban Nha 2017.[4]

Sự nghiệp cầu thủ[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Luis Enrique sinh ra tại Gijón, Asturias, và bắt đầu chơi bóng cho câu lạc bộ địa phương Sporting de Gijón,[5] nơi anh gắn với biệt danh Lucho sau Luis Flores, một tiền đạo người Mexico trong đội.[6] Sau đó ông dành phần lớn thời gian chơi bóng cho hai đội bóng lớn nhất của Tây Ban Nha: đầu tiên là Real Madrid trong năm mùa[7] và năm 1996, sau khi kết thúc hợp đồng, ông chuyển sang đại kình địch FC Barcelona theo dạng chuyển nhượng tự do.[8] Cổ động viên xứ Catalan ban đầu còn do dự về vụ chuyển nhượng này, nhưng ông sớm giành được trái tim của họ và chơi bóng cho Barca tám năm, cuối cùng trở thành đội trưởng, và ghi một vài bàn thắng trong các trận El Clásico trước chính đội bóng cũ Real.[9] Khi còn khoác áo Real, ông từng gây dấu ấn khi ghi bàn trong trận thắng sân nhà 5-0 trước Barcelona, nhưng nói rằng sau đó ông “cảm thấy hiếm khi được các cổ động viên Real Madrid đánh giá và không có những kỉ niệm đẹp ở đó”.[10]

Luis Enrique chơi cho đội tuyển Tây Ban Nha trong ba kì World Cup : 1994, 1998 và 2002, cũng như Euro 1996 ) và ghi 12 bàn thắng sau 62 lần khoác áo. Ông cũng là thành viên trong đội hình giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1992 ở Barcelona, [ 11 ] và có 13 lần ra sân trong đội hình chính vào ngày 17 tháng 4 năm 1991, trong đó có 22 phút trong trận giao hữu thua 0-2 trước România tại Cáceres. [ 12 ]Tại World Cup 1994 tổ chức triển khai tại Mỹ, Luis Enrique ghi bàn thắng tiên phong trong trận thắng 3-0 ở vòng 16 đội trước Thụy Sĩ ở Washington, D.C. [ 13 ] Trong thất bại 1-2 ở vòng tứ kết trước Ý tại sân hoạt động Foxboro, cùi trỏ của Mauro Tassotti đã đập vào mặt ông làm chảy máu, [ 14 ] tác động ảnh hưởng ấy đã khiến Luis bị mất gần một cân máu. Tuy nhiên hành vi đó không bị nhận hình phạt nào trong trận đấu, sau đó Tassotti đã bị cấm tám trận và không khi nào tranh tài quốc tế nữa. [ 15 ]

Sự nghiệp đào tạo và giảng dạy[sửa|sửa mã nguồn]

Ngày 26 tháng 5 năm 2008, Luis Enrique trở lại Barcelona, tiếp quản vị trí huấn luyện của đội B vừa được đổi tên thành Barcelona Atlètic trong mùa giải đó.[16] Vào giữa tháng 3 năm 2011, Luis Enrique tuyên bố ông sẽ rời Barcelona B vào cuối mùa, mặc dù vẫn còn hai năm trong hợp đồng.[17] Ông đã đưa đội bóng đến trận playoff, nhưng không đủ điều kiện để thăng hạng.[18]

Ngày 8 tháng 6 năm 2011, Luis Enrique đạt một thỏa thuận với câu lạc bộ từ Serie A A.S. Roma để trở thành vị thuyền trưởng mới của Gialloross. Ông ký một hợp đồng hai năm kèm với đội ngũ huấn luyện gồm bốn người: trong đó có cộng tác viên kĩ thuật là Iván de la Peña, người từng chơi hai năm cho đội bóng kình địch cùng thành phố S.S. Lazio.[19]

Roma bị loại khỏi UEFA Europa League bởi ŠK Slovan Bratislava, giữa những tranh luận gay gắt về việc thay huyền thoại Francesco Totti bằng cầu thủ Stefano Okaka. Đội bóng thủ đô cũng nhận trận thua đầu tiên tại giải nội địa trước Cagliari Calcio, đánh dấu trận thua mở màn thứ ba của đội trong 18 năm.[20]

Luis Enrique dẫn dắt Barcelona năm năm trướcNgày 19 tháng 5 năm năm trước, có thông tin công bố Luis Enrique sẽ trở lại Barcelona để làm huấn luyện viên, sau khi chấp thuận đồng ý một bản hợp đồng ba năm. Ông được đề xuất hợp đồng bởi giám đốc thể thao Andoni Zubizarreta, cựu đồng đội ở tuyển vương quốc. [ 3 ] Trận đấu tiên phong của ông là trận thắng 3-0 trên sân nhà trước Elche CF, nơi ông cho ra đời những bản hợp đồng mới như Claudio Bravo, Jérémy Mathieu và Ivan Rakitić, và loại sản phẩm cây nhà lá vườn Munir El Haddadi, Rafinha và Sandro Ramírez, trong khi bom tấn mùa hè Luis Suárez vắng mặt do bị treo giò. [ 21 ]Mặc dù để thua sân khách trước Real Sociedad, có một đổi khác đáng kể trong phong độ của Barcelona sau khi Enrique đổi khác đội hình. Ông cân đối kỷ lục 11 thắng lợi liên tục của Pep Guardiola, [ 22 ] trong khi đội liên tục vượt mặt Atlético Madrid và Villarreal CF một cách thuyết phục tại cúp Nhà vua để tiến đến trận chung kết. Tại giải quốc nội, sau khi thắng 8 trên 9 trận, đội bóng đã trở lại vị trí đầu bảng sau 15 tuần. [ 23 ]Ngày 21 tháng 4 năm năm ngoái, Luis Enrique tạo nên trận thắng thứ 42 sau 50 trận dẫn dắt Barcelona với thắng lợi 2-0 trước Paris Saint-Germain, một kỷ lục của một huấn luyện viên. [ 24 ] Ông đưa đội bóng đến trận chung kết của UEFA Champions League và vào ngày 17 tháng 5, ông giúp Barca giành thương hiệu vô địch vương quốc thứ 23 sau trận thắng 1-0 trước Atlético Madrid tại sân hoạt động Vicente Calderón. [ 25 ] [ 26 ] Ngày 6 tháng 6, sau khi đoạt cúp trong nước trước Athletic Bilbao với cùng tỉ số trên, Barcelona hoàn tất cú ăn ba với trận thắng 3-1 trước Juventus trong trận chung kết diễn ra tại Berlin, [ 27 ] và ba ngày sau ông đã đặt bút kí bản hợp đồng mới đến 2017. [ 28 ]

Thống kê sự nghiệp[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ[sửa|sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ

Mùa bóng

Giải quốc nội

Cúp

Châu Âu

Khác[nb 1]

Tổng cộng

Giải đấu

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Trận

Bàn

Sporting Gijón
1989-90
La Liga

1
0

1
0

1990-91

35
14
9
3

44
17

Tổng cộng

36
14
9
3
0
0
0
0
45
17

Real Madrid
1991-92

La Liga

29
4
6
1
6
0

41
5

1992-93

34
2
6
0
8
1

48
3

1993-94

28
2
4
1
6
0
2
0
40
3

1994-95

35
4
2
0
6
0

43
4

1995-96

31
3
0
0
8
0
2
0
41
3

Tổng cộng

157
15
18
2
34
1
4
0
213
18

Barcelona
1996-97

La Liga

35
17
7
1
7
0
2
0
51
18

1997-98

34
18
6
3
6
4
1
0
47
25

1998-99

26
11
3
0
3
1
2
0
34
12

1999-2000

19
3
5
3
7
6
2
0
33
12

2000-01

28
9
4
1
9
6

41
16

2001-02

23
5
0
0
15
6

38
11

2002-03

18
8
0
0
8
2

26
10

2003-04

24
3
1
0
5
2

30
5

Tổng cộng

207
73
26
8
60
27
7
0
300
109

Tổng cộng sự nghiệp

400
102
53
13
94
28
11
0
558
144

Ghi chú

[30]

Tây Ban Nha

Năm
Số trận
Bàn thắng

1991
1
0

1992
0
0

1993
2
0

1994
9
3

1995
8
0

1996
9
2

1997
4
2

1998
8
1

1999
8
4

2000
3
0

2001
5
0

2002
5
0

Tỏng cộng
62
12

Bàn thắng quốc tế[sửa|sửa mã nguồn]

Tỉ số và kết quả liệt kê bàn thắng của Tây Ban Nha trước[31]

Sự nghiệp cầu thủ[sửa|sửa mã nguồn]

Real Madrid
  • La Liga: 1995[32]
  • Cúp nhà vua (Copa del Rey): 1993[33]
  • Siêu cúp Tây Ban Nha (Supercopa de Espana): 1993[34]
FC Barcelona
Quốc tế

Sự nghiệp huấn luyện viên[sửa|sửa mã nguồn]

FC Barcelona

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: thabet
Category: Thể thao