Spetsnaz – Wikipedia tiếng Việt

Spetsnaz (tiếng Nga: спецназ, IPA [spʲɪtsˈnas]; là viết tắt cho Войска специа́льного назначе́ния; tr. Voyska spets ialnovo naz nacheniya; phát âm [vɐjˈska spʲɪtsɨˈalʲnəvə nəznɐˈtɕenʲɪjə] [ tiếng Anh: Special Purpose Forces; “Đơn vị quân sự có nhiệm vụ đặc biệt”]) là một thuật ngữ chung chỉ nhiệm vụ đặc biệt trong tiếng Nga và trong nhiều quốc gia hậu Xô Viết.

Trong lịch sử dân tộc, thuật ngữ này nói đến những đơn vị chức năng hoạt động giải trí đặc biệt quan trọng được trấn áp bởi Tổng cục Tình báo GRU ( Spetsnaz GRU ) và diễn đạt lực lượng đặc nhiệm của những bộ khác ( như Bộ Nội vụ ODON và đơn vị chức năng cứu hộ cứu nạn đặc biệt quan trọng của Bộ Quốc phòng ) [ 1 ] tại những nước hậu Xô Viết. Lực lượng đặc nhiệm Nga đội những loại mũ nồi màu khác nhau tùy vào nhánh lực lượng vũ trang mà họ ship hàng. Gồm :
Vì Spetsnaz là thuật ngữ của Nga nên nó thường tương quan đến những đơn vị chức năng đặc biệt quan trọng của Nga, nhưng những vương quốc hậu Xô Viết khác cũng dùng từ này để chỉ những đơn vị chức năng lực lượng đặc biệt quan trọng của họ vì những vương quốc này cũng thừa kế những đơn vị chức năng đặc biệt quan trọng từ những cơ quan bảo mật an ninh của Liên Xô cũ. Lữ đoàn Spetsnaz thứ năm của Belarus hoặc Nhóm Alpha của Cục An ninh Ukraine là những ví dụ của những lực lượng Spetsnaz không thuộc Nga. [ 2 ]

Lính bắn tỉa của Spetsnaz.

Các từ tiếng Nga spetsnazosnaz là các chữ viết tắt[cần giải thích] cho spetsialnovo naznacheniyaosobovo naznacheniya và đều có nghĩa là “nhiệm vụ đặc biệt”. Chúng là từ viết tắt âm tiết, không phải là từ viết tắt cho các chữ đầu và thường không được viết hoa.

Chúng là những thuật ngữ được sử dụng cho nhiều đơn vị hoạt động đặc biệt của Liên Xô (spetsoperatsiya). Ngoài ra, các đơn vị Cheka và Quân đội của Bộ Nội vụ (như OMSDONODON) cũng chứa osobovo naznacheniya trong tên đầy đủ. Các lực lượng thông thường khi được giao cho các nhiệm vụ đặc biệt đôi khi cũng được gọi bằng các thuật ngữ như spetsnazosnaz.

Spetsnaz sau này chỉ dùng để chỉ mục đích (spetsialnovo) đặc biệt (naznacheniya) hoặc các lực lượng đặc nhiệm (spetsoperatsiya; spec ops). Sự sử dụng rộng rãi của từ này là tương đối gần đây sau đợt cải tổ (perestroika) của Nga. Công chúng Liên Xô biết rất ít về lực lượng đặc biệt của đất nước họ cho đến khi nhiều bí mật nhà nước được tiết lộ theo chính sách glasnost “cởi mở” của Mikhail Gorbachev vào cuối những năm 1980. Kể từ đó, những câu chuyện về spetsnaz và năng lực phi thường đáng kinh ngạc có khi là sự thật, có khi đáng nghi ngờ, đã thu hút trí tưởng tượng của những người Nga yêu nước, đặc biệt là quân đội và lực lượng an ninh vào giữa thời kỳ hậu Xô Viết suy tàn trong thời kỳ perestroika dưới thời Mikhail Gorbachev và Boris Yeltsin. Một số cuốn sách về các lực lượng đặc biệt của tình báo quân đội Liên Xô, như cuốn Spetsnazː Câu chuyện đằng sau đội SAS của Liên Xô được viết bởi một điệp viên đã đào tẩu của GRU là Viktor Suvorov [3] đã giúp giới thiệu thuật ngữ này với công chúng phương Tây. Trong cuốn Aquarium (tạm dịchː Thủy cung) [4] được xuất bản bởi Viktor Suvorov sau khi đào tẩu về phương tây đã cáo buộc Spetsnaz sử dụng những tên tội phạm bị kết án từ hệ thống trại cải tạo lao động Gulag (có cả những thành viên hoạt động bí mật khác) như đối thủ cho việc huấn luyện chiến đấu đến chết. Việc này đã dừng lại ở một thời điểm nào đó không rõ. Tác giả nói rằng những cuộc đấu tay đôi tới chết đã trở nên hiếm hơn trong thời gian phục vụ của ông do việc kiếm “đối thủ” ngày càng trở nên khó khăn. Suvorov còn thường xuyên nói về các địa điểm của một số cơ sở đào tạo Spetsnaz bí mật đã giết chết tù nhân trong khóa huấn luyện nằm liền kề các trại cải tạo tập trung.

Ở Nga thời hậu Xô viết, từ “Spetsnaz” đã trở thành một thuật ngữ thông dụng khi các hoạt động đặc biệt (spetsoperatsiya), từ các cuộc tấn công của cảnh sát đến các hoạt động quân sự trong các xung đột nội bộ ngày càng trở nên phổ biến. Các báo cáo về những chiến dịch này và sự nổi tiếng của các lực lượng đặc biệt đã khuyến khích người dân goi những lực lượng này bằng tên: SOBR, Alpha, Vityaz. Thuật ngữ Spetsnaz cũng được sử dụng ở một số quốc gia hậu Xô Viết khác như Belarus, Ukraine và Kazakhstan để chỉ các lực lượng hoạt động đặc biệt của nước họ. Ở Nga, các lực lượng đặc biệt nước ngoài cũng được gọi là “Spetsnaz” (ví dụ như lực lượng đặc nhiệm của Hoa Kỳ sẽ được gọi là “amerikanskiy spetsnaz“).

Lịch sử hoạt động giải trí được biết[sửa|sửa mã nguồn]

Viktor Leonov đã giúp đặt nền móng cho Hải quân Spetsnaz hiện đại.Trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, ban chỉ huy Liên Xô đã nhận thức được rằng họ rất cần tin tình báo sớm nhất về những lực lượng trên bộ của Đức Quốc xã ở miền bắc Na Uy và Phần Lan. Vào ngày 5 tháng 7 năm 1941, Đô đốc Arseniy Golovko của Hạm đội phương Bắc đã được cho phép xây dựng một đội trinh thám mặt đất. Đơn vị này là ” Đội Tình nguyện Đặc biệt thứ tư ” sẽ tuyển dụng những thành viên khỏe mạnh của hạm quân và có số lượng khởi đầu từ 65 đến 70. Sau đó đơn vị chức năng được đổi tên thành Đội thám thính đặc biệt quan trọng thứ 181. [ 5 ] Nổi bật nhất trong số những tân binh này là Viktor Leonov, đã gia nhập Hải quân Liên Xô vào năm 1937. Ông được chỉ định vào một đội đào tạo và giảng dạy thủy thủ tàu ngầm và sau được chuyển đến một trạm thay thế sửa chữa trong Hạm đội phương Bắc tại Polyarnyy. [ 6 ] Leonov đã được huấn luyện và đào tạo để trở thành thợ lặn. Khi ông tham gia Đội tình nguyện Đặc biệt thứ 4, ông đã chứng tỏ được sự quả cảm và kiến thức và kỹ năng chỉ huy của mình khi tham gia nhiều chiến dịch mật và hai lần được trao thương hiệu Anh hùng Liên Xô. [ 5 ]Ban đầu, đơn vị chức năng này bị số lượng giới hạn để triển khai những trách nhiệm trinh thám quy mô nhỏ như những cuộc đổ xô cỡ trung đội trên đường thủy và trong một số ít dịp lên đất liền để vào Phần Lan, sau đó là vào Na Uy. [ 5 ] Họ khởi đầu triển khai những trách nhiệm phá hoại và đột kích bắt tù nhân để thẩm vấn. [ 5 ] Họ cũng hủy hoại kho đạn dược, hàng tiếp tế, TT liên lạc và tiến công quân Đức dọc bờ biển Phần Lan và Nga. [ 7 ]Khi cuộc xung đột ở châu Âu kết thúc, những trinh thám thủy quân được cử đến để đánh quân Nhật. Leonov cùng với Đại úy Kulebyakin và 140 người đã hạ cánh xuống một trường bay của Nhật Bản tại cảng Vonsan, không nhận ra rằng họ sẽ phải chiến đấu với hơn 3.500 lính địch. Một đại chiến căng thẳng mệt mỏi lê dài tới khi những sĩ quan chỉ huy của đơn vị chức năng đã lừa quân Nhật đầu hàng. [ 8 ]

Vụ án Crabb[sửa|sửa mã nguồn]

Lionel Crabb là người nhái của Hải quân Hoàng gia Anh và là một thợ lặn của MI6 đã mất tích trong một nhiệm vụ trinh sát xung quanh một tàu tuần dương Liên Xô neo đậu tại Cảng Portsmouth vào năm 1956. Vào ngày 16 tháng 11 năm 2007, đài BBC và Daily Mirror đã đưa tin rằng Eduard Koltsov, một người nhái Liên Xô, tuyên bố đã bắt được Crabb đang đặt một quả mìn lên thân tàu tuần dương Ordzhonikidze gần kho đạn dược và Crabb đã bị ông cắt cổ. Trong một cuộc phỏng vấn cho một bộ phim tài liệu của Nga, Koltsov cho xem cây dao găm mà ông được cho đã sử dụng cũng như một Huân chương Sao đỏ mà ông tuyên bố đã được trao tặng cho vụ đó.[9][10] Koltsov, 74 tuổi tại thời điểm phỏng vấn, nói rằng ông muốn giải tỏa lương tâm và cho mọi người biết chính xác những gì đã xảy ra với Crabb.[11] (Có lẽ đáng chú ý là Peter Mercer của S.B.S (Đặc nhiệm thuộc Hải quân Hoàng gia Anh) mô tả sự cố này trong cuốn tự truyện của mình, tạm dịchː “Tàu tuần dương [Ordzhonikidze] đang chở hai nhà lãnh đạo Liên Xô là Khruschev và Bulganin trong chuyến thăm thiện chí tới Anh. Nhiệm vụ của anh ta [Crabb] là đo chân vịt của tàu và tìm hiểu cách con tàu di chuyển với tốc độ gấp đôi tốc độ ban đầu mà tình báo hải quân Anh ước tính.”)

Quân cảnh sẵn sàng chuẩn bị cho một trách nhiệm ở AfghanistanCác lực lượng Spetsnaz của Liên Xô đã tham gia vào cuộc cuộc chiến tranh Liên Xô – Afghanistan tiến trình 1979 – 1989 ở Afghanistan. Họ thường dùng giải pháp đánh nhanh / rút nhanh bằng trực thăng. Chiến dịch nổi tiếng nhất của họ, Chiến dịch Bão tố-333 ( 27 tháng 12 năm 1979 ), lực lượng đặc nhiệm Liên Xô đã xông vào Cung điện Tajbeg ở Afghanistan, giết Tổng thống Afghanistan Hafizullah Amin và 200 vệ sĩ riêng của ông. [ 12 ] Liên Xô sau đó cài Babrak Karmal làm người kế vị của Amin .

Chiến dịch này có khoảng 660 đặc nhiệm Liên Xô mặc đồng phục Afghanistan tham gia, bao gồm 50 sĩ quan KGB và GRU từ Đội AlphaĐội Zenith. Các lực lượng Liên Xô chiếm đóng các tòa nhà chính phủ, các hạ tầng quân sự và truyền thông lớn ở Kabul, bao gồm mục tiêu chính của họ là Dinh Tổng thống Tajbeg.

Các đơn vị chức năng Spetsnaz đã thực thi nhiều trách nhiệm không kích gồm có cả phục kích và đột kích. Spetsnaz thường triển khai những trách nhiệm phục kích và tàn phá những đoàn xe tiếp tế của địch. [ 13 ] Phiến quân Mujahideen rất tôn trọng Spetsnaz, coi họ là một đối thủ cạnh tranh mạnh hơn nhiều so với lính trong chính sách quân dịch bắt buộc của Liên Xô. Họ nói rằng những cuộc không kích của Spetsnaz đã biến hóa độ phức tạp của đại chiến. Họ cũng tin rằng Spetsnaz đã đóng toàn bộ những tuyến đường tiếp tế dọc biên giới Afghanistan – Pakistan vào năm 1986. Vào tháng 4 năm 1986 phiến quân đã mất một trong những địa thế căn cứ lớn nhất tại Zhawar ở tỉnh Paktia trong một cuộc không kích của Spetsnaz. Spetsnaz đã đánh sập một số ít vị trí của phiến quân phía trên địa thế căn cứ ( là một loạt những hang động bền vững và kiên cố dài hàng dặm trong một hẻm núi xa xôi ). Spetsnaz cũng đã thành công xuất sắc trong việc đưa lực lượng không quân vào những khu vực trong Thung lũng Konar gần Barikot, nơi trước kia được xem là không hề tiếp cận được so với họ. [ 14 ]
Người ta tin rằng trong đại chiến ở Afghanistan, Spetsnaz đã có xung đột trực tiếp với Đội đặc vụ của Pakistan do đơn vị chức năng này đã cải trang thành người Afghanistan tương hỗ Mujahideen chiến đấu với Liên Xô. Một cuộc giao tranh được báo cáo giải trình giữa quân đội Pakistan và Liên Xô đã diễn ra tại tỉnh Kunar vào tháng 3 năm 1986. Các nguồn tin của Liên Xô cho rằng đó là trận chiến giữa Lữ đoàn Spetsnaz thứ 15 của GRU với trung đoàn Usama Bin Zaid của phiến quân Afghan Mujahideen dưới quyền chỉ huy của Assadullah, thuộc phe Abdul Rasul Sayyaf. [ 15 ] Giao tranh cũng được cho là đã xảy ra trong Chiến dịch Magistral, gần 200 người Mujahideen đã chết trong nỗ lực thất bại để chiếm Đồi kế hoạch 3234 gần biên giới Pakistan với một đại đội lính dù Liên Xô 39 người .

Vào tháng 10 năm 1985, các chuyên gia từ Đội “A” (Alpha) của KGB được phái đến Beirut, Lebanon. Điện Kremlin đã được thông báo về vụ bốn nhà ngoại giao Liên Xô bị bắt cóc bởi Tổ chức Giải phóng Hồi giáo (một nhánh cực đoan của Huynh đệ Hồi giáo). Người ta tin rằng đây là sự trả đũa cho sự hỗ trợ của Liên Xô can dự vào Syria trong Nội chiến Lebanon.[16] Tuy nhiên, khi đội Alpha tới nơi thì một trong những con tin đã bị giết. Người ta cho rằng thông qua một mạng lưới các thành viên KGB, các thành viên của đội đặc nhiệm đã xác định được từng thủ phạm liên quan; một khi xác định được, nhóm sẽ bắt thân nhân của những chiến binh này làm con tin. Theo chính sách tiêu chuẩn của Liên Xô là không đàm phán với khủng bố, một con tin mà Alpha bắt được đã bị cắt tinh hoàn gửi cho các chiến binh, sau đó đã bị giết. Lời cảnh cáo rất rõ ràng: nhiều người sẽ bị tương tự trừ khi các con tin còn lại được thả ra ngay lập tức. Việc sử dụng vũ lực đã có hiệu quả và trong vòng 20 năm sau đó, không có quan chức Liên Xô hay Nga nào bị bắt cóc cho đến năm 2006 đã xảy ra một vụ bắt cóc và sát hại bốn nhân viên sứ quán Nga ở Iraq.

Tuy nhiên tính chân thực của câu truyện này đã bị nghi vấn. Một phiên bản khác nói rằng việc thả những con tin Liên Xô là hiệu quả của những cuộc đàm phán ngoại giao với nhà chỉ huy niềm tin của Hezbollah là Grand Ayatollah Mohammad Hussein Fadlallah. Ông đã lôi kéo vua Hussein của Jordan và những nhà chỉ huy của Libya và Iran sử dụng tác động ảnh hưởng của họ lên những kẻ bắt cóc. [ 17 ]
Sau sự sụp đổ của Liên Xô, những lực lượng Spetsnaz của những nước cộng hòa mới xây dựng của Liên Xô đã tham gia vào nhiều cuộc xung đột trong nước như Nội chiến Tajikistan, Chiến tranh Chechen, Chiến tranh Nga-Gruzia và Khủng hoảng Crimea. Spetsnaz cũng đã được lôi kéo để xử lý một số ít trường hợp bắt giữ con tin cấp cao như cuộc khủng hoảng cục bộ con tin tại nhà hát Moscow và cuộc khủng hoảng cục bộ con tin ở trường Beslan ( vụ thảm sát trường Beslan ). [ 18 ]

Khủng hoảng con tin ở bệnh viện Budyonnovsk[sửa|sửa mã nguồn]

Lực lượng Spetsnaz trong cuộc xung đột Dagestan năm 1999 .Diễn ra từ ngày 14 tháng 6 đến ngày 19 tháng 6 năm 1995 khi một nhóm gồm 80 đến 200 tên khủng bố người Chechnya do Shamil Basayev chỉ huy đã tiến công thành phố Budyonnovsk miền nam nước Nga. Chúng đã xông vào đồn công an chính và tòa thị chính. Sau nhiều giờ chiến đấu và khi quân tiếp viện của Nga sắp tới, quân Chechen rút lui về khu dân cư và tập hợp lại trong bệnh viện thành phố, ở đó chúng bắt giữ từ 1.500 đến 1.800 con tin, hầu hết là thường dân ( gồm có khoảng chừng 150 trẻ nhỏ và 1 số ít phụ nữ có trẻ sơ sinh ). [ 19 ]Sau ba ngày vây hãm, chính quyền sở tại Nga đã ra lệnh cho lực lượng bảo mật an ninh chiếm lại khu bệnh viện. Các lực lượng được tiến hành là những nhân viên cấp dưới xuất sắc ưu tú từ Đội Alpha của Cục An ninh Liên bang cùng với MVD militsiya và Quân nội vụ. Lực lượng tiến công đã tiến vào khu bệnh viện vào rạng sáng ngày thứ tư và gặp phải sự kháng cự kinh khủng. Sau nhiều giờ chiến đấu nhiều con tin đã bị giết bởi đạn lạc, một lệnh ngừng bắn đã được đồng ý chấp thuận và 227 con tin được thả ra ; 61 người khác đã được những lực lượng Nga giải cứu .Một cuộc tiến công thứ hai của quân Nga vào bệnh viện vài giờ sau đó cũng thất bại và lần thứ ba cũng vậy, làm tăng số thương vong lên nữa. Chính quyền Nga cáo buộc quân Chechen sử dụng con tin làm lá chắn sống .Theo những số liệu chính thức, chung cuộc có 129 thường dân đã thiệt mạng và 415 người bị thương ( trong đó 18 người sau đó đã chết do bị thương nặng ). [ 20 ] Trong đó có tối thiểu 105 con tin đã tử trận. [ 19 ] Tuy nhiên có một nguồn độc lập đã ước tính 166 con tin đã thiệt mạng và 541 người bị thương trong cuộc tiến công của lực lượng đặc nhiệm. [ 21 ] [ 22 ] Ít nhất 11 sĩ quan công an Nga và 14 binh sĩ đã thiệt mạng. [ 19 ] Lực lượng của Basayev có 11 người thiệt mạng và một người mất tích ; hầu hết thi thể của họ đã được đưa về Chechnya bằng một chiếc xe tải ướp lạnh chuyên được dùng. Trong những năm sau đó, hơn 30 kẻ tiến công còn sống đã bị giết, trong đó có Aslambek Abdulkhadzhiev vào năm 2002, Shamil Basayev vào năm 2006 và hơn 20 tên khác đã bị TANDTC chủ quyền lãnh thổ Stavropol phán quyết .

Lực lượng đặc biệt của Nga là công cụ hỗ trợ cho Nga và Kremlin trong thành công của chính phủ trong Chiến tranh Chechnya lần thứ hai. Dưới sự chỉ huy chung của Quân đoàn thống nhất (OGV), các đặc nhiệm Spetsnaz của GRU, FSB, MVD đã tiến hành vô số các nhiệm vụ chống quân nổi dậy và khủng bố bao gồm cả việc tiêu diệt các lãnh đạo phe ly khai và gây ra thương vong nặng nề cho phe ly khai Hồi giáo. Một trong số này là những kẻ khủng bố và các nhà lãnh đạo ly khai đã bị quốc tế lên án như Aslan Maskhadov, Sheikh Abdul Halim, Dokka Umarov, Turpal-Ali Atgeriyev, Akhmed Avtorkhanov, Ibn al-Khattab, Abu al-Walid, Abu Hafs al-Urduni, Muhannad, Ali Taziev, Supyan Abdullayev, Shamil Basayev, Ruslan Gelayev, Salman Raduyev, Sulim Yamadayev, Rappani Khalilov, Yassir al-Sudani. Trong các chiến dịch này, nhiều đặc nhiệm đã được vinh danh vì lòng dũng cảm và năng lực của họ trong chiến đấu và được tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Nga. Ít nhất 106 đặc nhiệm FSB và GRU đã chết trong cuộc chiến.[23]

Nhà hát Dubrovka vào ngày 23 tháng 10 năm 2002 đã bị chiếm đóng bởi 40 đến 50 người Chechnya có vũ trang công bố trung thành với chủ với trào lưu ly khai của phiến quân Hồi giáo ở Chechnya và được xác nhận do Movsar Barayev chỉ huy .. [ 24 ] Chúng bắt giữ 850 con tin và nhu yếu những lực lượng Nga rút khỏi Chechnya và chấm hết Chiến tranh Chechen lần thứ hai .Do phong cách thiết kế của nhà hát, những lực lượng đặc nhiệm sẽ phải chiến đấu qua 100 foot ( 30 m ) hiên chạy dọc và tiến công lên một cầu thang được phòng thủ chắc như đinh để hoàn toàn có thể đến hội trường nơi con tin bị giam giữ. Những kẻ khủng bố cũng mang nhiều chất nổ, với sức nổ mạnh nhất là ở TT của khán phòng, nếu nổ hoàn toàn có thể làm sập trần và gây thương vong hơn 80 %. [ 25 ] Sau cuộc vây hãm lê dài hai ngày rưỡi và hai con tin đã bị xử tử, Spetsnaz của đội Alpha từ Tổng cục An ninh Liên bang ( FSB ) và Vympel ( còn được gọi là Nhóm Vega ) được đơn vị chức năng SOBR của Bộ Nội vụ Nga ( MVD ) tương hỗ đã bơm một chất hóa học không được bật mý vào mạng lưới hệ thống thông gió của nhà hát và đột kích vào trong. [ 24 ]Trong cuộc đột kích, toàn bộ 40 tên khủng bố đã thiệt mạng, Spetsnaz không có thương vong nào, nhưng khoảng chừng 130 con tin, trong đó có chín người quốc tế, đã chết do sơ cứu kém sau khi bất tỉnh nhân sự vì khí gas. Hầu hết trong số đó sau khi được sơ tán đã nằm ngửa lên trên thay vì nằm ở tư thế phục sinh đã được phê chuẩn và rồi bị ngộp thở đến chết. Các cơ quan bảo mật an ninh Nga phủ nhận bật mý loại khí được sử dụng dẫn đến những bác sĩ tại những bệnh viện địa phương không hề chữa trị cho những nạn nhân. [ 26 ] Tất cả trừ hai con tin đã chết trong cuộc vây hãm đã bị giết bởi chất độc được bơm vào nhà hát để khuất phục những kẻ tiến công. [ 27 ] [ 28 ] Việc sử dụng khí gas này bị lên án can đảm và mạnh mẽ và được coi là quá mạnh tay nhưng cơ quan chính phủ Mỹ và Anh coi hành vi của Nga là chính đáng. [ 29 ]Các bác sĩ ở Moscow đã lên án việc khước từ bật mý tên của loại khí đã không cho họ hoàn toàn có thể cứu nhiều người hơn. Một số báo cáo giải trình cho biết naloxone đã được sử dụng để chữa cho 1 số ít nạn nhân. [ 30 ]

Vụ tiến công trường Beslan[sửa|sửa mã nguồn]

Hình ảnh những nạn nhân trường Beslan .

Còn gọi là vụ thảm sát trường Beslan [31][32][33] bắt đầu từ ngày 1 tháng 9 năm 2004, kéo dài ba ngày và có sự bắt giữ hơn 1.100 người làm con tin (bao gồm 777 trẻ em),[34] kết cục 334 người đã thiệt mạng, trong đó có 186 trẻ em. Vụ việc đã để lại hậu quả an ninh và chính trị ở Nga; sau vụ này đã có sự gia tăng thù địch sắc tộc giữa người Ingush và Ossetia đồng thời góp phần vào một loạt các cải cách của chính phủ liên bang nhằm củng cố quyền lực ở Kremlin và tăng cường quyền lực của Tổng thống Nga.[35]

Vào ngày 1 tháng 9 năm 2004, một nhóm những chiến binh Hồi giáo cực đoan có vũ trang, đa phần là người Ingush và Chechen đã chiếm Trường số 1 ( School Number One, SNO ) tại thị xã Beslan, Bắc Ossetia ( một nước cộng hòa tự trị ở vùng Bắc Caikaus thuộc Liên bang Nga ). Chúng là Tiểu đoàn Riyadus-Salikhin được lãnh chúa khủng bố Chechen là Shamil Basayev phái đến. Ông là người đã nhu yếu sự công nhận độc lập của Chechnya tại Liên Hiệp Quốc và nhu yếu quân Nga rút khỏi Chechnya .Vào ngày thứ ba, những đơn vị chức năng chống khủng bố đã xông vào tòa nhà bằng xe tăng, tên lửa cháy và những vũ khí hạng nặng khác sau khi nhiều vụ nổ xảy ra làm rung chuyển tòa nhà và trẻ nhỏ khởi đầu trốn ra. Chính trong sự hỗn loạn này hầu hết những sĩ quan đã chết trong nỗ lực đưa những đứa trẻ ra khỏi đại chiến. [ 36 ] [ 37 ] Ít nhất 334 con tin đã thiệt mạng trong vụ này, gồm có 186 trẻ nhỏ. [ 38 ] [ 39 ] Các báo cáo giải trình chính thức về số những thành viên của lực lượng đặc nhiệm của Nga đã thiệt mạng mở màn từ 11, 12, 16 ( 7 của Alpha và 9 của Vega ) cho đến hơn 20 người [ 40 ]. Nhưng chỉ có 10 tên trên tượng đài vinh danh họ ở Beslan. [ 41 ] Những người thiệt mạng gồm cả ba chỉ huy của nhóm tiến công : Đại tá Oleg Ilyin, Trung tá Dmitry Razumovsky của Vega và Thiếu tá Alexander Perov của Alpha. [ 42 ] Ít nhất 30 lính biệt kích bị thương nặng. [ 43 ]Vụ tiến công cũng lưu lại sự kết thúc của chủ nghĩa khủng bố hàng loạt trong cuộc xung đột ly khai ở Bắc Kavkaz cho đến năm 2010 khi hai phụ nữ Dagestan đã đánh bom tự sát tiến công hai nhà ga ở Nga. Sau vụ Beslan, trong vài năm sau không có cuộc tiến công tự sát nào ở trong và ngoài Chechnya .

Bài học kinh nghiệm tay nghề[sửa|sửa mã nguồn]

Đến giữa những năm 2000, những lực lượng đặc nhiệm đã chiếm thế thượng phong trước những thành phần ly khai. Các cuộc tiến công khủng bố ở Nga đã giảm dần từ 257 vụ năm 2005 xuống còn 48 vụ vào năm 2007. Nhà nghiên cứu và phân tích quân sự chiến lược Vitaly Shlykov nhìn nhận cao hiệu suất cao thao tác của những cơ quan an ninh Nga, nói rằng kinh nghiệm tay nghề học được ở Chechnya và Dagestan là chìa khóa dẫn tới thành công xuất sắc. Năm 2008, tạp chí Chính sách đối ngoại của Carnegie Endowment đã gọi Nga là ” nơi tệ nhất để trở thành một kẻ khủng bố “, đặc biệt quan trọng nhấn mạnh vấn đề việc Nga chuẩn bị sẵn sàng đặt bảo mật an ninh vương quốc lên trên những quyền công dân. [ 44 ] Đến năm 2010, những lực lượng đặc biệt quan trọng của Nga do FSB chỉ huy đã vô hiệu thành công xuất sắc chỉ huy cao nhất của lực lượng nổi dậy Chechen, trừ Dokka Umarov. [ 45 ]Từ năm 2009, mức độ khủng bố ở Nga đã tăng trở lại. Đặc biệt đáng lo lắng là sự ngày càng tăng những vụ tiến công tự sát. Từ tháng 2 năm 2005 đến tháng 8 năm 2008 không có thường dân nào thiệt mạng trong những vụ tiến công liều chết đó, nhưng trong năm 2008 tối thiểu 17 người đã thiệt mạng và năm 2009 số lượng đã tăng lên 45. [ 46 ] Vào tháng 3 năm 2010, phiến quân Hồi giáo đã thực thi vụ đánh bom tàu điện ngầm Moscow năm 2010 làm 40 người thiệt mạng. Trong hai vụ nổ xảy ra tại nhà ga Lubyanka, gần trụ sở TT của FSB. Thủ lĩnh phiến quân Doku Umarov biệt danh ” Osama Bin Laden của Nga ” đã chịu nghĩa vụ và trách nhiệm cho vụ tiến công. Vào tháng 7 năm 2010, Tổng thống Dmitry Medvedev đã lan rộng ra quyền hạn của FSB trong đại chiến chống khủng bố .Năm 2011, Tổng cục An ninh Liên bang đã phát hiện và lật tẩy 199 gián điệp quốc tế, gồm có 41 điệp viên chuyên nghiệp và 158 điệp viên thao tác cho tình báo quốc tế. [ 47 ] Con số này đã tăng lên trong những năm gần đây : năm 2006, FSB đã bắt được khoảng chừng 27 sĩ quan tình báo quốc tế và 89 đặc vụ quốc tế. [ 48 ] So sánh với số lượng gián điệp bị phát hiện trong lịch sử dân tộc, năm 1996 giám đốc thời đó của FSB là Nikolay Kovalyov nói rằng : ” Chưa khi nào chúng tôi bắt được nhiều điệp viên như thế này kể từ hồi Đức cài gián điệp vào trong thời Thế chiến II. ” Con số năm 2011 cũng giống như số lượng đã được báo cáo giải trình vào năm 1995 – 1996, trong hai năm đó có khoảng chừng 400 điệp viên tình báo quốc tế bị phát hiện. [ 49 ]

Chiến dịch chống khủng bố trước Thế vận hội Sochi năm trước[sửa|sửa mã nguồn]

Các nhà tổ chức Olympic đã nhận được một số đe dọa trước thềm Thế vận hội. Trong một video hồi tháng 7 năm 2013, chỉ huy Hồi giáo Chechen Dokka Umarov đã kêu gọi tấn công vào sự kiện này, nói rằng Thế vận hội đang được tổ chức “trên xương của rất rất nhiều người Hồi giáo bị giết… và được chôn trên đất của chúng ta kéo dài ra tận Biển Đen.”[50] Các lời cảnh báo đã nhận được từ Vilayat Dagestan là nhóm đã nhận trách nhiệm về vụ đánh bom Volgograd theo yêu cầu của Umarov. Một số Ủy ban Olympic Quốc gia cũng đã nhận được những lời đe dọa qua e-mail rằng những tên khủng bố sẽ bắt cóc hoặc “thổi bay” các vận động viên trong suốt kì Thế vận hội.

Để đối phó với những lời rình rập đe dọa, lực lượng đặc nhiệm Nga đã triển khai trấn áp những tổ chức triển khai khủng bố bị hoài nghi, triển khai nhiều vụ bắt giữ. Họ công bố đã ngăn ngừa nhiều thủ đoạn [ 51 ] và giết chết nhiều thủ lĩnh Hồi giáo gồm có Eldar Magatov, nghi phạm tiến công những tiềm năng Nga và bị cáo buộc là thủ lĩnh của một nhóm nổi dậy ở Q. Babyurt, Dagestan. [ 52 ] Dokka Umarov đã bị đầu độc vào ngày 6 tháng 8 năm 2013 và chết vào ngày 7 tháng 9 năm 2013. [ 53 ]
Đơn vị Spetsnaz của VDV RF đã tham gia vào cuộc khủng hoảng cục bộ Crimea năm trước. Họ là hàng trăm lính của Lữ đoàn trinh thám độc lập thứ 45 và Lữ đoàn Spetsnaz thứ 22 đã cải trang thành thường dân. [ 54 ] [ 55 ] [ 56 ] [ 57 ]
So với năm trước, tội phạm giảm rõ ràng và sự không thay đổi đã tăng trên toàn Nga nhưng đã có khoảng chừng 350 chiến binh nổi dậy ở Bắc Kavkaz đã bị giết trong những chiến dịch chống khủng bố trong bốn tháng đầu năm năm trước, theo thông tin của Bộ trưởng Nội vụ Vladimir Kolokoltsev tại Đuma Quốc gia. [ 58 ]

Ngày 23 tháng 9 năm 2014, các cơ quan thông tấn Nga đã đánh dấu kỷ niệm 15 năm thành lập Quân đoàn thống nhất (OGV, hay còn gọi là ОГВ ở Bắc Kavkaz). OGV là trụ sở liên cục được thành lập tại Khankala, Chechnya để chỉ huy mọi chiến dịch của Nga (MOD, MVD, FSB) từ khi bắt đầu cuộc chiến Chechen lần thứ hai vào năm 1999.

Kể từ khi xây dựng, những chiến dịch phối hợp OGV đã thực thi 40.000 trách nhiệm đặc biệt quan trọng, tàn phá 5.000 những địa thế căn cứ và kho đạn dược, tịch thu 30.000 vũ khí những loại và giải giáp 80.000 chất nổ những loại ( quy trình này đã hủy hoại hơn 10.000 lính nổi dậy trong 15 năm ). Bộ Nội vụ ( MVD ) quan tâm rằng thương hiệu Anh hùng Liên bang Nga đã được trao cho 93 quân nhân MVD trong OGV ( trong đó có 66 thương hiệu được truy tặng ). Hơn 23.000 lính MVD đã được vinh danh cho hành vi của họ trong những chiến dịch. [ 59 ]Lực lượng Spetsnaz của Nga đã tham gia vào cuộc đụng độ Grozny năm trước. [ 60 ]
Nhiều đơn vị chức năng đặc nhiệm khác của Nga đã công khai minh bạch tương hỗ những đơn vị chức năng quân đội Syria, và cùng với Lực lượng Không quân ngoài hành tinh Nga, đã cực kì hữu ích trong việc đẩy lùi những lực lượng chống cơ quan chính phủ. [ 61 ]Vào lúc cao điểm, có một đội khoảng chừng 250 lính GRU, có lẽ rằng được chọn ra từ 1 số ít đơn vị chức năng, gồm có cả Hải quân Spetsnaz từ Điểm Trinh sát Hải quân 431, trong khi những đặc nhiệm từ SSO hầu hết thực thi những trách nhiệm bắn tỉa, chống bắn tỉa của địch và trinh thám. [ 62 ]
Quân đội Đế quốc Nga có những đơn vị chức năng đặc công được xây dựng từ một sắc lệnh của Sa hoàng vào năm 1886, và đơn vị chức năng này đã chiến đấu trong Thế chiến I trước cách mạng Nga. Cũng trong Chiến tranh quốc tế thứ nhất, Tướng Aleksei Brusilov là một trong những người tiên phong sử dụng giải pháp tiến công nhanhː tiến hành bộ đội xung kích ngay trong hỏa lực pháo tập trung chuyên sâu đúng mực trong cuộc tổng tấn công của Brusilov. Chiến thuật như vậy được coi là cách mạng vào thời đó và sau đó truyền cảm hứng cho những người như Đại úy Phổ Willy Rohr dẫn tới sự hình thành lính Stormtrooper của Phổ .

Các mốc thời hạn[sửa|sửa mã nguồn]

Việc sử dụng các chiến thuật và chiến lược đặc biệt ban đầu được đề xuất bởi nhà lý thuyết quân sự Nga Mikhail Svechnykov (bị tử hình trong Đại thanh trừng năm 1938). Ông đã dự tính phát triển các loại chiến tranh không chính thống để khắc phục những bất lợi mà các lực lượng thông thường phải đối mặt. Những ý tưởng này được triển khai bởi “ông nội của spetsnaz” Ilya Starinov.[cần dẫn nguồn]

Trong Thế chiến II, các cuộc trinh sát và phá hoại của Hồng quân được đặt dưới sự giám sát của Cục cơ sở của Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô. Các lực lượng này nhận lệnh của các chỉ huy mặt trận.[63] Cơ quan gián điệp và an ninh nội bộ khét tiếng NKVD cũng có các đội đặc nhiệm (osnaz) riêng gồm nhiều đội phá hoại được đưa vào các vùng lãnh thổ của kẻ thù để hoạt động chung (thường là tiếp nhận rồi lãnh đạo) với du kích Liên Xô.

Năm 1950, Georgy Zhukov chủ trương thành lập 46 đại đội spetsnaz, mỗi đại đội gồm 120 quân nhân. Đây là lần đầu tiên từ “spetsnaz” được sử dụng để biểu thị một nhánh quân sự riêng biệt kể từ Thế chiến II. Các đại đội này sau đó được mở rộng lên thành các tiểu đoàn và sau đó đến các lữ đoàn. Tuy nhiên, một số đại đội riêng (orSpN) và các biệt đội (ooSpN) vẫn tồn tại chung với các lữ đoàn cho đến khi Liên Xô tan rã.

Lực lượng đặc nhiệm của lực lượng vũ trang RF gồm có mười bốn lữ đoàn trên bộ, hai lữ đoàn thủy quân và 1 số ít biệt đội và đại đội tách biệt, toàn bộ đều hoạt động giải trí dưới quyền Tổng cục Tình báo Chính ( GRU ), gọi chung là Spetsnaz GRU. Sự sống sót của những đơn vị chức năng và đội hình này được bảo mật thông tin nhất hoàn toàn có thể, từng có đồng phục và phù hiệu làm giống của lính dù Liên Xô ( quân Spetsnaz ) hoặc bộ binh thủy quân ( Spetsnaz thủy quân ) .24 năm sau khi Spetsnaz sinh ra thì một đơn vị chức năng chống khủng bố tiên phong được xây dựng bởi quản trị của KGB là Yuri Andropov. Từ cuối những năm 1970 đến những năm 1980, 1 số ít đơn vị chức năng chuyên sử dụng đã được xây dựng bên trong KGB và Bộ Nội vụ ( MVD ) .

Trong những năm 1990, các phân đội đặc biệt đã được thành lập trong Cục Tòa án Liên bang (FSIN) và Lực lượng quân dù (VDV). Một số cơ quan dân sự có không có chức năng như cảnh sát đã lập ra các đơn vị đặc nhiệm được gọi là Spetsnaz như trung tâm đặc biệt trong Bộ Tình huống khẩn cấp (MChS).

Vào năm 2013, một Bộ Tư lệnh Lực lượng Hoạt động Đặc biệt đã được xây dựng, trước đó được xây dựng từ khoảng chừng năm 2009 theo một điều tra và nghiên cứu về những đơn vị chức năng và chỉ huy lực lượng đặc biệt quan trọng của phương Tây. Bộ Tư lệnh đã không phải chịu sự trấn áp của GRU nhưng đã báo cáo giải trình trực tiếp cho Bộ Tổng tham mưu cũng như GRU. [ 64 ]
Các đơn vị chức năng tinh luyện của Lực lượng Vũ trang Liên Xô và Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga, phần đông được trấn áp bởi tình báo quân sự chiến lược GRU ( Spetsnaz GRU ) thuộc Bộ Tổng tham mưu trấn áp. Họ đã tham gia rất nhiều vào những trách nhiệm bí hiểm và huấn luyện và đào tạo những lực lượng thân Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, ở Afghanistan trong những năm 1980 và Chechnya trong những năm 1990 và 2000. Sau cuộc cải cách quân đội Nga vào năm 2008, năm 2010 những lực lượng đặc nhiệm GRU sẽ nằm dưới sự trấn áp của Lục quân Nga, ” trực tiếp phụ thuộc vào vào sự chỉ huy của những chỉ huy kế hoạch tích hợp “. [ 65 ] Tuy nhiên vào năm 2013, những lực lượng Spetsnaz này đã được đặt lại dưới quyền GRU. Lực lượng Không quân Nga ( VDV, một nhánh riêng của Lực lượng Vũ trang Liên Xô và Liên bang Nga ) đã gồm có cả Lữ đoàn Spetsnaz thứ 45. Năm 2009, một Tổng cục Tác chiến đặc biệt quan trọng được xây dựng và đã báo cáo giải trình trực tiếp cho Bộ Tổng tham mưu chứ không phải cho GRU để xây dựng Lực lượng tác chiến đặc biệt quan trọng mà năm 2013 đã trở thành Bộ tư lệnh lực lượng tác chiến đặc biệt quan trọng. [ 64 ]

Hầu hết các đơn vị đặc nhiệm của quân đội Nga được biết đến bởi đội hình (đại đội, tiểu đoàn hoặc lữ đoàn) và một con số. Hai trường hợp ngoại lệ là Tiểu đoàn đặc biệt VostokZapad (Đông và Tây) người Chechnya trong những năm 2000. Dưới đây là danh sách các đơn vị đặc nhiệm năm 2012 trong Lực lượng Vũ trang Nga:[66][67]

Đặc nhiệm Spetsnaz MoD SOF trong khóa huấn luyện và đào tạo nhảy dù trên không HALO

Bộ Tư lệnh Lực lượng Đặc nhiệm (KSSO) [64][68][69][70]
  • Lực lượng đặc nhiệm (SSO) [64][68][69][70]
    • Trung tâm đặc nhiệm “Senezh” [69][70]
    • Trung tâm đặc nhiệm “Kubinka-2” [69][70]
    • Trung tâm tác chiến miền núi “Terskol” [62]
    • Lữ đoàn hàng không đặc biệt [71]
    • Phi đội cứu hộ khẩn cấp 561
Tổng cục tình báo chính (GRU);

Các đơn vị chức năng tiếp theo thuộc những nhánh quân sự chiến lược đơn cử nhưng chịu sự trấn áp của GRU trong những trách nhiệm thời chiến

Lực lượng và phương tiện đa năng dưới nước (PDSS)

Người nhái của lực lượng PDSS thứ 313 đang thực thi những chiến dịch trên bộ . Người nhái từ lực lượng PDSS thứ 311 tại Kamchatka ( 2017 ) .Hải quân Nga cũng chuyên dùng những đơn vị chức năng thợ lặn phá hoại và chống phá hoại trên biển. Các đơn vị chức năng này cũng gồm có những người nhái, được đào tạo và giảng dạy để chiến đấu dưới nước, phá thủy lôi và giải phóng mặt phẳng. Nhiệm vụ của họ là bảo vệ tàu và những hạm chiến khác khỏi lực lượng đặc nhiệm dưới nước của quân địch. Thuật ngữ ” combat swimmer ” ( tạm dịchː người nhái ) là thuật ngữ đúng mực khi nói đến những thành viên của OSNB PDSS. Mỗi đơn vị chức năng PDSS có khoảng chừng 50 người. [ 80 ] Các địa thế căn cứ Hải quân lớn đều có những đơn vị chức năng PDSS. [ 80 ]

  • Biệt đội PDSS thứ 101 – có trụ sở tại Petropavlovsk-Kamchatsky
  • Biệt đội PDSS thứ 102 – có trụ sở tại Sevastopol
  • Biệt đội PDSS thứ 136 – có trụ sở tại Novorossiysk
  • Biệt đội PDSS thứ 137 – có trụ sở tại Makhachkala
  • Biệt đội PDSS thứ 140 – có trụ sở tại Vidyayevo
  • Biệt đội PDSS thứ 152 – có trụ sở tại Polyarny, tỉnh Murmansk
  • Biệt đội PDSS thứ 153 – có trụ sở tại Ostrovnoy, tỉnh Murmansk
  • Biệt đội PDSS thứ 159 – có trụ sở tại Razboynik
  • Biệt đội PDSS thứ 160 – có trụ sở tại Murmansk
  • Biệt đội PDSS thứ 269 – có trụ sở tại Gadzhiyevo
  • Biệt đội PDSS thứ 311 – có trụ sở tại Petropavlovsk-Kamchatsky
  • Biệt đội PDSS thứ 313 – có trụ sở tại Baltiysk
  • Biệt đội PDSS thứ 473 – có trụ sở tại Kronstadt

Trung tâm Chiến dịch đặc biệt của FSB (CSN FSB, центр специального назначения ФСБ) có khoảng 4.000 đặc nhiệm [81] trong ba bộ phận:

  • Ban “A” (Spetsgruppa Alpha)
  • Ban “V” (Spetsgruppa Vympel)
  • Ban “S” (Spetsgruppa Smerch)
  • Đơn vị FSB khu vực

Trụ sở chính của CSN FSB là một khu phức tạp lớn gồm những tòa nhà và khu vực huấn luyện và đào tạo, với hàng chục hec đất và nhiều điểm huấn luyện và đào tạo. Trung bình một sĩ quan CSN được giảng dạy trong khoảng chừng năm năm. [ 82 ]

Spetsgruppa “A” (Nhóm Alpha) là một đơn vị chống khủng bố được thành lập vào năm 1974. Đây là một đơn vị chuyên nghiệp, bao gồm khoảng 720 nhân viên, trong đó khoảng 350 người được đào tạo cho các chiến dịch tấn công và phần còn lại là nhân viên hỗ trợ.[83] Họ được phân ra thành năm đội, trong đó có một đội dài hạn tại Cộng hòa Chechen. Các đơn vị khác đóng quân tại Moscow, Krasnodar, Yekaterinburg và Khabarovsk. Tất cả các thành viên của Alpha đều trải qua khóa huấn luyện trên không, trên núi và chống phá hoại. Alpha đã hoạt động ở các nước khác, đặc biệt là Chiến dịch Bão tố-333 (các đơn vị của nhóm Alpha và Zenith đã hỗ trợ biệt đội Spetsnaz Độc lập 154, nổi tiếng là “Tiểu đoàn Hồi giáo “, trong một nhiệm vụ của GRU là lật đổ và giết Tổng thống Afghanistan Hafizullah Amin).[84]

Spetsgruppa “V” viết tắt cho Ban в (là V trong bảng chữ cái Cyrillic của Nga) còn được gọi là “Vega” trong giai đoạn 1993-1995, được thành lập năm 1981, hợp nhất hai đơn vị đặc biệt thời Chiến tranh Lạnh của KGB là Cascade (Kaskad) và Zenith (Zenit), hoạt động tương tự như Cục tình báo trung ương CIA (chịu trách nhiệm về các hoạt động bí mật liên quan đến việc phá hoại và ám sát ở các quốc gia khác) và sau được chỉ định lại thành các hoạt động chống khủng bố và chống phá hoại. Vega được giao nhiệm vụ bảo vệ các cơ sở chiến lược, chẳng hạn như các nhà máy và trung tâm vận tải. Vega và Alpha được sử dụng rất nhiều ở Bắc Kavkaz. Vympel có bốn đơn vị hoạt động tại Moscow có các văn phòng chi nhánh ở gần như ở mọi thành phố có nhà máy điện hạt nhân.

Spetsgruppa “S”, viết tắt của Ban C (S trong bảng chữ cái Cyrillic của Nga), còn được gọi là Smerch, nhưng còn được gọi là Cục chiến dịch đặc biệt (ССO) là một đơn vị tương đối mới được thành lập vào tháng 7/1999. Các thành viên của Smerch thường xuyên tham gia bắt giữ và chuyển giao tội phạm đã gây rối ở Bắc Caucasus và khắp nước Nga, chống lại những tên cướp ở miền Nam nước Nga cũng như bắt giữ mục tiêu cấp cao ở các thành phố đông dân hơn và bảo vệ các quan chức chính phủ. Do tên viết tắt của nó, nhóm này vẫn thường được gọi là “Smerch” (Cơn lốc). Nhiều đơn vị lực lượng đặc biệt của FSB hoạt động ở cấp khu vực cùng với các đội tinh nhuệ của Trung tâm chiến dịch đặc biệt. Những phân đội này được gọi là ROSN hoặc ROSO (Bộ Khu Vực đặc biệt được chỉ định), chẳng hạn như Grad (Mưa đá) của Saint Petersburg hoặc Kasatka Orca của Murmansk.

SVR RF, trước kia là Tổng cục trưởng tiên phong của KGB Liên Xô, có lực lượng đặc nhiệm bí hiểm số 1 được biết đến với cái tên Zaslon ( Заслон ) ( có nghĩa là rào chắn hoặc khiên ) mà rất ít được biết đến .Trong Bộ Điều hành của Ban Z có Nhóm Đặc nhiệm xuất sắc ưu tú được gọi là Zaslon. Trước đây trong PGU KGB SSSR được gọi là Vympel ( ví dụ tương tự như của Pháp là Bộ phận hành vi ). Tuy nhiên, sự sống sót của một nhóm như vậy trong SVR bị chính quyền sở tại Nga phủ nhận. Tuy nhiên, có 1 số ít tin đồn thổi rằng nhóm như vậy thực sự sống sót và được giao trách nhiệm triển khai những chiến dịch rất đặc biệt quan trọng ở quốc tế đa phần để bảo vệ nhân viên cấp dưới đại sứ quán Nga và tìm hiểu nội bộ. Người ta tin rằng nhóm này rất bí hiểm và gồm có khoảng chừng 300 – 500 đặc nhiệm có nhiều kinh nghiệm tay nghề hoàn toàn có thể nói nhiều ngôn từ và có lịch sử dân tộc hoạt động giải trí rất dài trong khi Giao hàng trong những đơn vị chức năng bí hiểm khác của quân đội Nga. [ 85 ] [ 86 ] [ 87 ]
Lính của Trung tâm Đặc nhiệm thứ 604 Thử thách vượt chướng ngại vật trong đợt tuyển quân cho OSN Maroon Beret ( mũ nồi màu hạt dẻ ) .

Cơ quan đại diện các đơn vị đặc biệt của Vệ binh Quốc gia của Nga (củng cố và thay thế các lực lượng của Quân nội vụ MVD, SOBR, OMON) bao gồm một số quân nội vụ Nga (VV, có tiền thân là quân nội vụ Liên Xô) đơn vị bán quân sự để chống lại các mối đe dọa nội bộ, chẳng hạn như nổi dậy và bạo động phản quốc. Các đơn vị này thường có một tên duy nhất và số OSN chính thức, và một số thuộc ODON (còn được gọi là Bộ phận Dzerzhinsky). OBrON (Lữ đoàn chỉ định đặc biệt độc lập) VV (spetsgruppa) đã được triển khai đến Chechnya.[88]

Sau đây là danh sách Vệ binh quốc gia OSN (отряд специального назначения, “biệt đội đặc nhiệm”) vào năm 2012:[89]

  • Bộ phận Dzerzhinsky (ODON)
    • Trung tâm mục đích đặc biệt 604
  • OSN 7 Rosich (Novocherkassk)
  • OSN 12 Ural (Nizhny Tagil)
  • OSN 15 Vyatich (Armavir)
  • OSN 17 Edelveys (Mineralnye Vody)
  • OSN 19 Ermak (Novosibirsk)
  • OSN 21 Tayfun (Sosnovka)
  • OSN 23Mechel (Chelyabinsk)
  • OSN 25 Merkuriy (Smolensk)
  • OSN 26 Bars (Kazan)
  • OSN Kuzbass 27 (Kemerovo)
  • OSN 28 Ratnik (Arkhangelsk)
  • OSN 29 Bulat (Ufa)
  • OSN 30 Svyatogor (Stavropol)
  • OSN 33 Peresvet (Moscow)
  • OSN 34 Skif (Grozny)
  • OSN 35 Rus (Simferopol)

MVD còn có lực lượng cảnh sát đặc nhiệm Politsiya (trước đây là Militsiya) có mặt ở hầu hết mọi thành phố của Nga. Hầu hết các sĩ quan cảnh sát đặc biệt của Nga thuộc các đơn vị OMON, chủ yếu là cảnh sát chống bạo động và không được coi là lực lượng tinh nhuệ. không như SOBR (được gọi là OMSN từ 2002 đến 2011), là đơn vị phản ứng nhanh, được đào tạo tốt hơn và. Cộng hòa Chechen có các đội cảnh sát đặc biệt độc lập và có tính tự trị cao được giám sát bởi Ramzan Kadyrov và được thành lập từ Kadyrovtsy, bao gồm cả Trung đoàn Kadyrov (Akhmad hoặc Akhmat) (“Spetsnaz của Kadyrov“).

Các cơ quan MVD khác[sửa|sửa mã nguồn]

Cục phòng chống ma túy Liên bang Nga

  • OSN “Grom”

Bộ Tư pháp[sửa|sửa mã nguồn]

Lực lượng đặc nhiệm FSIN dùng vũ khí có phụ kiện của FAB DefenseBộ Tư pháp duy trì 1 số ít tổ chức triển khai spetsnaz :Sau đây là list những đội trong Cục Thi hành án Liên bang :

  • OSN “Fakel” [90]
  • OSN “Rossy” [91]
  • OSN “Akula” [92]
  • OSN “Ajsberg” [93]
  • OSN “Gyurza” [94]
  • OSN “Korsar” [95]
  • OSN “Rosomakha” [96]
  • OSN “Sokol” [97]
  • OSN “Saturn” [98]
  • OSN “Tornado”
  • OSN “Kondor”
  • OSN “Yastreb” [99]
  • OSN “Berkut” [100]
  • OSN “Grif” [101]
  • OSN “Titan” [102]
  • OSN “Gepard” [103]
  • OSN Saturn

Lữ đoàn Spetsnaz thứ 5 là một lữ đoàn đặc nhiệm của Lực lượng Vũ trang Belarus, trước đây là một phần của Spetsnaz Liên Xô.[104] Ngoài ra, Ủy ban An ninh Nhà nước (KGB) của Belarus được thành lập từ các nhân viên và đặc vụ cũ sau khi Liên Xô tan rã. KGB của Belarus có Spetsgruppa “A” (Nhóm Alpha) là đơn vị chống khủng bố chính của đất nước.[105]

Cũng như nhiều vương quốc hậu Xô Viết khác, Kazakhstan cũng dùng thuật ngữ Alpha Group để chỉ những lực lượng đặc nhiệm. Đơn vị Alpha thuộc chủ quyền lãnh thổ Almaty đã được chuyển thành đơn vị chức năng đặc biệt quan trọng Arystan ( có nghĩa là ” Sư tử ” trong tiếng Kazakhstan ) của Ủy ban An ninh Quốc gia ( KNB ) của Kazakhstan. [ 106 ] Năm 2006, năm thành viên của Arystan đã bị bắt và bị buộc tội bắt cóc một chính trị gia của phe trái chiều là Altynbek Sarsenbayuly với tài xế và vệ sĩ của ông ; ba nạn nhân được cho rằng đã bị giao cho những người sau đó đã sát hại họ. [ 107 ]

Kokhzal (có nghĩa là Bầy sói trong tiếng Kazakhstan) là một đơn vị đặc biệt của Kazakhstan chịu trách nhiệm thực hiện các chiến dịch chống khủng bố và bảo vệ cho Tổng thống Kazakhstan.[108]

Giống như tổng thể những vương quốc hậu Xô Viết, Ukraine kế thừa từ tàn dư của những lực lượng vũ trang Liên Xô là những đơn vị chức năng Spetsnaz GRU và KGB. Ukraine hiện duy trì cấu trúc Spetsnaz riêng dưới sự trấn áp của Bộ Nội vụ và thuộc Bộ Quốc phòng, trong khi Cục An ninh Ukraine có lực lượng Spetsnaz của riêng họ là nhóm Alpha. Thuật ngữ ” Alpha ” cũng được sử dụng bởi nhiều vương quốc khác thuộc Liên Xô như Nga, Belarus và Kazakhstan vì những đơn vị chức năng này dựa trên Nhóm Alpha của Liên Xô. Lực lượng công an đặc biệt quan trọng Berkut của Ukraine đã giành được sự quan tâm trong cuộc cách mạng Ukraine năm năm trước khi được cho là đã được chính phủ nước nhà sử dụng để dập tắt cuộc nổi dậy. Tuy nhiên, điều này còn gây tranh cãi vì nhiều sĩ quan cũng bị thương và thiệt mạng trong sự kiện. [ 109 ]

  • Viktor Suvorov, Spetsnaz: The Story Behind the Soviet SAS, Hamish Hamilton, London 1987
  • David C. Isby, Weapons and Tactics of the Soviet Army, Jane’s Publishing Company Limited, London, 1988
  • Carey Schofield, The Russian Elite: Inside Spetsnaz and the Airborne Forces, Greenhill, London, 1993

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]

Source: thabet
Category: Game