Giang hồ (chữ Hán: 江湖; [[bính âm Hán ngữ|bính âm]o
]: Jianghu) hay chốn giang hồ, nghĩa tiếng Việt là sông và hồ (nước) là một hình thái xã hội hay một thế giới (thường là hư cấu) phản ánh hình ảnh một xã hội trong thời cổ ở Trung Quốc tại một địa điểm không cố định, trong đó có nhiều biến cố về võ hiệp, những loạn lạc, thị phi, cừu thù, âm mưu, ân oán của cộng đồng người sống trong thế giới thu nhỏ này.
Định nghĩa trong văn hóa truyền thống Trung Hoa[sửa|sửa mã nguồn]
Chữ “giang hồ” cũng có thể được xem như bắt đầu từ cuốn Thủy hử của Thi Nại Am vào thế kỷ 12. Trong đó, một băng nhóm sống ngoài vòng cương tỏa của pháp luật, tìm đến một nơi ẩn náu trong một đầm lầy, và từ đó dẫn đến một cuộc chiến tranh du kích chống lại các quan chức tham nhũng. Quá trình tập hợp của các anh hùng thảo dã tại bến nước để hình thành quân khởi nghĩa Lương Sơn Bạc được Thi Nại Am dành 70 hồi để diễn giải.
Trong văn hóa Trung Hoa thời cổ, giang hồ là từ dùng để chỉ về sông, nước, sơn thủy, nơi các bậc ẩn giả, hiền triết ngao du, hay mai danh ẩn tích xa lánh sự đời. Trong thời kỳ hiện đại, đặc biệt là thời kỳ các tiểu thuyết theo trường phái võ hiệp được hình thành và trở nên phổ biến thì thuật ngữ giang hồ chuyên dùng để mô tả một xã hội tồn tại song song với xã hội đương thời và hầu như không bị ràng buộc về mặt luật pháp và vương quyền.
Bạn đang đọc: Giang hồ – Wikipedia tiếng Việt
Trong thế giới giang hồ này, võ công là yếu tố hàng đầu để quyết định địa vị xã hội, một người có võ công cao cường và có tín nghĩa, uy tín sẽ là người làm minh chủ võ lâm và có thể độc bá giang hồ. Những người có võ công thấp hơn thì sẽ có các địa vị tương ứng như Chưởng môn, Đà chủ, Cung chủ… Trong thế giới này, yếu tố kinh tế hầu như không được đề cập, một xã hội tồn tại không dựa trên bất kỳ sự mô tả về kinh tế nào nhưng dường như cuộc sống rất phong lưu, những người trong giang hồ vô tư uống rượu, dự tiệc tùng… họ thường có rất nhiều tiền và thường đem theo sẵn ngân phiếu, ngân lượng.
Các luật lệ trong giang hồ ràng buộc người trong đó ở chữ “Nghĩa“, hay nghĩa khí giang hồ theo cách trọng chữ “tín“, những người trong giang hồ thường giữ chữ tín, tin tưởng lẫn nhau như những bằng hữu, hay tri kỷ. Công lý trong giang hồ thể hiện ở phạm trù “Công đạo” tức là một sự công bằng gần như tuyệt đối ân đền oán trả (ân oán giang hồ) và thường là bênh vực kẻ yếu kém. Việc đánh giết, tử vong trong giang hồ là chuyện thường xuyên nhưng không có sự can thiệp của triều đình hay pháp luật. Những cuộc xung đột trong giang hồ (quyết đấu sinh tử giang hồ) được hiểu là các bên đã ký vào một “sinh tử trạng“. Danh tiếng trong giang hồ luôn được các giới nhân sĩ coi trọng, họ sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo toàn danh tiếng (sĩ khả sát bất khả nhục) và luôn đề cao mình là những người quân tử.
Trong giang hồ quốc tế được phân loại thành phe khá rõ ràng là ” chính ” và ” tà “, phe chính thường là dành cho những người của những môn phái, bang hội, những giáo phái, phái võ lớn như : Cái Bang, Thiếu Lâm, Võ Đang, Tung Sơn …. còn phái tà thường dùng cho những giáo phái, bang hội nhỏ hơn như Ma giáo, Bạch Liên Giáo, Ngũ Độc … Cũng trong giang hồ tiêu chuẩn phân loại chính là chữ ” nghĩa ” ( nghĩa khí giang hồ ) và ” hiệp ” ( Giang hồ hào hiệp ) tuy nhiên nhiều tác phẩm cho thấy tiêu chuẩn này là tương đối vì trong chính có tà, trong tà có chính. Dư luận trong giang hồ cũng là một yếu tố luôn được nhiều người chăm sóc, việc nhìn nhận một nhân vật nào thường địa thế căn cứ chung vào dư luận. Nhiều nhân vật được đặt những cái tên ngoại hiệu ( ví dụ : Quân tử kiếm Nhạc Bất Quần ) .
Định nghĩa thế kỷ 20[sửa|sửa mã nguồn]
Trong những tác phẩm viết về giới du đãng của nhà văn Duyên Anh cũng dùng chữ giang hồ để mô tả đời sống những nhân vật băng đảng, sống ngoài vòng pháp luật, như Trần Đại (mang hình ảnh Đại ca Thay), Châu Kool trong Điệu ru nước mắt. Nhưng “giang hồ cũng có luật (của) giang hồ”, các nhân vật du đãng của Duyên Anh đều hết lòng vì tình nghĩa với nhau và giữ chữ tín (giữ lời hứa) của mình.
Ngày nay thuật ngữ giang hồ còn dùng để chỉ một cách xấu đi về những người trong xã hội sống long dong, đây đó và thường làm những ngành nghề bị lên án như bảo kê, đâm thuê chém mướn, hoặc những người vô gia cư, long dong du thủ du thực hay những ông trùm, những đại ca xã hội đen, [ 1 ] [ 2 ] [ 3 ] [ 4 ] gái giang hồ dùng để chỉ về những người đã từng trải và hoàn toàn có thể chỉ về gái bán dâm. [ 5 ]