Giang hồ quy ẩn

Tuy đời sống đơn giản và giản dị, thanh bần, siêu thị nhà hàng đạm bạc nhưng trong lòng sư thấy an nhàn, thanh thản. Sau mấy chục năm rong ruổi giang hồ, từng gây tạo biết bao nghiệp chướng, sau cuối sư cũng nhận ra niềm hạnh phúc giản đơn trong đời sống thanh bần này .Từ trùm giang hồ nổi tiếng thành một vị chân tu Cách đây nhiều năm, câu truyện về cuộc sống sư Thích Minh Thủy có lẽ rằng là một câu truyện mê hoặc trí tò mò của nhiều người vì nó ly kỳ như một bộ phim về tội phạm vậy. Chính cho nên vì thế, có một khoảng chừng thời hạn báo chí truyền thông cũng đã khai thác rất nhiều về cuộc sống của sư ở góc nhìn từ một tên cướp có số má trong giang hồ đến một vị sư ẩn tu khổ hạnh. Câu chuyện ấy ra sao, chắc rằng nhiều người đều đã biết tường tận. Thế nhưng ngày hôm nay, chúng tôi một lần nữa mang câu truyện ấy vào tập sách này, không phải vì những diễn biến bồn chồn, ly kỳ ấy, mà chúng tôi muốn nói đến sự diệu kỳ của ánh sáng Phật pháp trong chặng đường hướng thiện của một tên tội phạm. Mong rằng hành trình dài hướng thiện ấy sẽ góp thêm một niềm tin vững chãi cho quý fan hâm mộ về những điều tốt đẹp trong đời sống. Và cho những ai đã từng mặc cảm vì những tội lỗi trong quá khứ sẽ dũng mãnh bước ra khỏi bóng tối của sự dằn vặt đau đớn, để sống một cuộc sống phía trước thật ý nghĩa.

Sư Minh Thủy có thế danh là Phạm Văn Hưởng, sinh năm 1953 trong một gia đình có truyền thống Nho học, cha là một người trọng Nho giáo, rất nghiêm khắc trong việc dạy con cái. Phạm Văn Hưởng là con trai duy nhất trong gia đình chỉ có hai chị em. Tuy vậy, ông lại không được thừa hưởng những nét đẹp, sự thâm thúy, tinh thần trọng lễ nghĩa từ truyền thống Nho gia của người cha. Từ nhỏ ông đã quen thói ham chơi, lêu lổng cùng đám bạn xấu. Trước lúc mất, người cha vẫn canh cánh trong lòng nỗi lo về con trai, ông gọi người con gái lớn đến bên và dặn dò phải chăm lo, bảo ban em trai khi ông qua đời. Người chị ấy cũng rất mực thương em nên đã hứa nhận lời cha. Lời hứa ấy là trách nhiệm, là tình thương của người chị dành cho đứa em, nhưng nó cũng chính là sợi dây oan nghiệt trói buộc cuộc đời bà vào những ngày tháng ăn chơi sa đọa của đứa em hư hỏng.

Bạn đang đọc: Giang hồ quy ẩn

Nhà sư Thích Minh Thủy muốn mọi người hãy tránh xa tội lỗi như ông từng lún sâu một thời. Ảnh: Internet

Nhà sư Thích Minh Thủy muốn mọi người hãy tránh xa tội lỗi như ông từng lún sâu một thời. Ảnh: Internet

Vốn có bản tính ham chơi từ thời còn đi học, chính cho nên vì thế, sau khi cha qua đời, ông lại ngày càng trượt dài trên bước đường ăn chơi sa đọa. Năm 1970, cũng như bao người trẻ tuổi đến tuổi đi lính khác, ông gia nhập quân đội nhưng không lâu sau đã dính vào ma túy. Không chỉ là ma túy mà toàn bộ những thú ăn chơi tận hưởng trụy lạc trên cuộc sống ông đều dính vào. Nhưng có lẽ rằng nặng nhất là rượu và ma túy. Hai thứ chất độc ấy đã làm tha hóa con người ông, biến ông trở thành một con người mất hết nhân tính và tình nghĩa khi hết lần này đến lần khác tìm cách lừa gạt chị gái mình để lấy tiền thỏa mãn nhu cầu thói ham chơi. Dù từ nhỏ được ăn học đàng hoàng, được thụ hưởng truyền thống lịch sử đạo đức Nho giáo từ người cha, nhưng càng sống ông lại càng xa rời những nguyên tắc, những kỳ vọng mà cha mình đã cố công vun đắp. Về dấu ấn của rượu trong cuộc sống mình, ông kể, sau khi ăn chơi trác táng không còn tiền để hút chích nữa, ông lại nghĩ đến chị mình. Ông nói dối chị muốn mượn tiền đi làm ăn xa. Người chị đáng thương dù đã bị lừa gạt nhiều lần, nhưng vì đó đứa là em trai duy nhất nên bà gom góp đưa cho ông mấy chỉ vàng tích góp được. Khi có tiền rồi ông liền nghĩ tới việc ra Bắc thăm anh cùng cha khác mẹ, thực ra chỉ là để thỏa mãn nhu cầu nụ cười đi đây đó tận hưởng. Anh em gặp lại, bắt đầu cũng hàn huyên tâm sự vui tươi, nhưng khi mở màn có rượu vào thì không ai còn trấn áp được bản thân mình, lời qua tiếng lại, không ai chịu thua ai. Cuối cùng, trong men say của rượu khiến đầu óc đầy sân hận và mất hết lý trí, ông đã lấy dao chặt đứt ngón tay của mình và thề sẽ đoạn tuyệt tình nghĩa bạn bè. Sự việc diễn ra quá nhanh gọn khiến tổng thể mọi người đều bàng hoàng, và hậu quả là ông đã bị mất một ngón tay. Cho đến ngày hôm nay, vấn đề ấy vẫn nhắc ông nhớ rằng rượu là một loại thuốc độc hoàn toàn có thể làm mất hết lý trí và hạt giống trí huệ. Người uống rượu vì không còn đủ lý trí để trấn áp hành vi của mình mà dễ gây ra những việc làm điên rồ, thậm chí còn là tội lỗi. Rượu nguy hại là vậy, nhưng có lẽ rằng điều kinh khủng nhất mà ông vướng phải trong cuộc sống mình chính là ma túy. Theo lời ông kể, nếu phân phối khá đầy đủ cho “ con ma ” này thì nó rất từ bi, hoan hỷ, bao dung, sẽ nằm yên một chỗ để tận hưởng ảo giác cá thể, còn xung quanh như thế nào nó không cần biết. Nhưng nếu không phân phối thuốc cho nó thì nó khiến con người không còn nhân tính nữa. Lúc ấy con người chỉ như thể một con thú, chỉ biết rằng đói thuốc thì phải bằng mọi giá đi tìm thuốc. Nó khiến một người dám làm những điều đê tiện nhất, kể cả so với cha mẹ, bạn bè, vợ chồng, con cháu, bạn hữu, … để có được tiền mua thuốc. Nếu không có thuốc, con nghiện sẽ lâm vào tình cảnh ngáp dài, chảy nước mắt, đau bụng, tiêu chảy, … Và điều khủng hoảng cục bộ nhất chính là khi mọi người chuẩn bị sẵn sàng đi vào giấc ngủ ngon thì người nghiện lại thức trắng đêm. Vì không có thuốc không tài nào ngủ được, từ đó tư tưởng cứ hối thúc, bằng mọi giá phải làm thế nào có được thuốc. Dù rằng lúc ấy đang ở trên đỉnh núi mà nếu dưới chân núi có thuốc thì cũng phải bò xuống kiếm thuốc cho bằng được. Đó là ma lực ghê gớm của ma túy. Và chính bản thân ông đã từng trải qua toàn bộ những cảm xúc ấy. Ngày ấy, sau khi lừa gạt chị mình hết lần này đến lần khác, đến khi người chị cũng hết sạch tâm sức và tài lộc, không đủ năng lực chu cấp cho ông nữa, ông đành tính kế khác. Vốn đã quen thói ăn chơi sa đọa, cũng chẳng hề có nghề nghiệp gì trong tay, từ nhỏ đi học cầm bút, lớn lên đi lính cầm súng. Ngoài hai việc đó ra, ông chẳng biết làm gì. Cho nên, ma đưa đường, quỷ dẫn lối ông trở thành một tên cướp. Vì đã từng đi lính, biết sử dụng súng nên ông gom góp tiền tài mua một khẩu súng ngắn. Sau khi rủ thêm một đồng bọn, ông khởi đầu theo dõi nạn nhân và lên kế hoạch ra tay. Biết được đôi vợ chồng nọ thường đi thu tiền hụi ngang qua khu vực chợ, ông và đồng bọn ẩn mình theo dõi chờ thời cơ tiếp cận cướp bọc tiền cùng chiếc xe máy. Trong cơn phê thuốc, ông cầm súng uy hiếp người chồng và cướp được chiếc xe máy. Nhưng không may, khi vừa nổ máy chạy được một đoạn thì xe hết xăng, nạn nhân thừa lúc đó truy hô người dân đuổi bắt. Ông cùng đồng bọn không còn cách nào khác phải bỏ xe chạy trốn. Không ngờ từ phía sau đã có hai anh công an đuổi theo khống chế được tên đồng bọn đi cùng. Ông thấy vậy liền đưa súng nhắm bắn vào đầu anh công an nhưng gặp phải viên đạn thối. Anh công an thoát chết, liên tục truy đuổi. Cuối cùng không còn sức lực lao động chạy trốn nữa, ông và đồng bọn đành vứt súng phi tang rồi phải chịu tra tay vào còng. Sau khi bị giải về đồn công an, ông bị xử bảy năm tù, còn đồng phạm bốn năm tù. Bắt đầu từ đây ông phải sống những ngày tháng đọa đày phía sau hàng tuy nhiên sắt. Ông gọi nó là âm ti trần gian, bởi những ai từng phải vào tù mới thấu hết cảnh khổ của chốn này. Ông nhớ lại : Ở trong tù, người ta chỉ cho tù nhân mặc mỗi chiếc quần đùi, tay bị còng ra phía sau, một sợi xích sắt dài dùng để xiềng chân tù nhân lại với nhau. Một phòng khoảng chừng chín mét vuông nhốt chung năm, sáu tù nhân phạm tội nặng. Trong phòng giam để một xô nhựa nhỏ để đựng chất thải, một tuần mới đem đi đổ một lần. Sống trong thiên nhiên và môi trường dơ bẩn và hôi thối của mùi phân, mùi nước tiểu nên nhiều tù nhân bị dây xích cạ vào cổ chân lâu ngày lở loét sinh ra dòi. Mỗi khi có người lê chân bước đi là năm người còn lại phải cắn răng chịu đựng đau đớn vì ống chân lở loét cọ vào sợi xích sắt, đau thấu xương. Chưa kể đến hậu quả của việc nghiện hút mà sống trong thực trạng thiếu thuốc nên phải chịu đựng chứng tiêu chảy hành hạ. Cơm ăn mỗi bữa chỉ có được một tô rắc vào chút muối, chan thêm chút nước canh mà cũng phải ăn lấy ăn để vì đói. Nước uống mỗi ngày chỉ được một ly nhỏ, nhiều lúc khát nước đến khô cổ họng mà ly nước không còn một giọt. Sau này khi đọc trong kinh Phật, ông thấy rằng đây là âm ti trần gian, không khác gì trong kinh miêu tả “ chịu gông cùm xiềng xích, đói thì ăn sắt nóng, khát thì uống nước đồng sôi ”. Thế nhưng bao nhiêu cảnh khổ ấy vẫn chưa thấm thía gì so với nỗi khổ đói thuốc. Mỗi khi lên cơn thèm thuốc là thân thể ông như có hàng trăm con dòi bò trong xương thịt, nhức nhối, bứt rứt vô cùng. Đến lúc không chịu đựng nổi ông phải đập đầu vào tuy nhiên sắt cho máu chảy bê bết ra ngoài mới thôi .

Hoàn lương bên cửa Phật Sau bảy năm dài đằng đẵng đọa đày thân xác, ông được mãn hạn tù, nhưng việc tiên phong ông nghĩ đến không phải là tìm về bên người thân trong gia đình mà là ma túy. Sẵn có máu liều lĩnh cộng thêm mối quen biết những tay giang hồ trong tù, ông liên tục lao vào vào con đường tội lỗi, làm bảo kê, chuyên đi đâm thuê chém mướn xử lý những oán thù giang hồ cho đàn anh. Từ những việc vô lương đó, ông có tiền để liên tục ăn chơi, hút chích, không còn nhớ nhung gì đến người thân trong gia đình. Thời gian sau đó, ông nhận được tin mẹ mất, chị gái dọa rằng nếu ông không về thì sẽ đoạn tuyệt tình chị em. Ông động lòng quay về và được chị mua cho chiếc xe máy để chạy xe ôm kiếm sống. Thế nhưng chứng nào tật nấy, mới được vài hôm ông lại bán xe để lấy tiền chích ma túy. Cảm thấy không còn cách nào khác, cũng xem như đó là lần giúp sau cuối, chị gái nhất định ép ông vào chùa làm công quả. Không biết vì quá chán nản đời sống không có ý nghĩa của mình hay vì nhân duyên xui khiến mà ông đã chịu theo lời chị gái vào chùa ở. Thời gian sống trong môi trường tự nhiên mới không có điều kiện kèm theo để dùng thuốc nên ông đã nghĩ đến chuyện cai thuốc. Vốn đam mê thứ độc dược ấy là vậy, nhưng khi quyết định hành động cai là ông cai ngang và không hề dùng thuốc tương hỗ. Dù kiểu cai ngang này khiến cho thân thể ông chịu giày vò, đau đớn và mất ngủ triền miên. Mỗi lần lên cơn đều giống như một trận chiến quyết liệt giữa ông và ma túy. Cuối cùng ông đã cai nghiện thành công xuất sắc. Tuy đã sống an phận nơi chốn thiền môn nhưng bản tính sân si cùng những tập khí của đời sống giang hồ khiến ông không ít lần gây ra những chuyện không hay nơi cửa chùa. Trong thời hạn được quý thầy nuôi nấng chỉ dạy, ông nhiều lần bị trách phạt. Đến khi quý thầy không thể nào bao dung được nữa, ông phải xếp gói ra đi. Nhưng không rõ do nhân duyên nào định sẵn hay vì trong thời hạn sống ở chùa tiếp xúc với kinh kệ nhiều nên phần nào những âm thanh vi diệu ấy đã ảnh hưởng tác động đến sâu thẳm tiềm thức nơi ông … Lần ra đi này ông không quay trở về đời sống giang hồ phiêu bạt nữa, ông tìm xuống Tịnh xá Ngọc Phật xin tập sự xuất gia. Khi ông đến nơi, thầy trụ trì cũng là thầy bổn sư của ông sau này đã nhìn ông lo lắng nói rằng : “ Ở đây khó lắm, chú có ở được không ? ” Ông ra vẻ cương quyết nói “ Dạ, khó mấy con cũng ở được ”. Thầy trụ trì tiếp lời : “ Khó ở đây không chỉ là đời sống giản dị và đơn giản, thanh bần khác xa thế tục mà là muốn nói về giới luật. Ở đây làm gì cũng phải trong khuôn khổ của giới luật, không ai được phép tự ý làm điều gì mà không theo khuôn khổ ”. Nhưng dù cho thầy nói thế nào, ông vẫn một mực xin ở lại, không thoái lui. Và quả thật đó không phải là một lời hứa suông. Tuy bản tính hung hăng, tùy tiện, chấp ngã, … rất khó điều phục để sống trong một thiên nhiên và môi trường khuôn khổ, nề nếp nhưng ông chưa hề có ý muốn từ bỏ con đường mình muốn đi. Ông đã sửa bỏ từ từ tập khí giang hồ của mình, từng chút từng chút một. Cuối cùng, trải qua ngày tháng tu rèn thân tâm, gã giang hồ nghiện ngập Phạm Văn Hưởng ngày nào đã hoàn toàn có thể xuất gia trở thành một nhà sư đúng nghĩa. Từ đó, ông sống một cuộc sống mới của người tu phạm hạnh, cuộc sống của sư Thích Minh Thủy.

Thật khó có thể tin được một gã giang hồ nay quy ẩn thành một nhà sư chân chính. Nhưng đó là sự thật. Sau khi xuất gia, sư Minh Thủy được thầy bổn sư sắp xếp đến ẩn tu một mình trong một tịnh thất nhỏ trên núi Thị Vải. Hằng ngày, sư tự đặt ra cho mình một thời khóa chuyên tu hết sức nghiêm ngặt. Từ 11 giờ đêm, sư thức dậy để bắt đầu công phu. Sư bảo rằng thời khắc từ 11 giờ đêm đến 1 giờ sáng là thời khắc âm – dương giao đổi, không khí rất thanh tịnh, rất tốt cho việc công phu. Sư thực hành theo lời dạy của tổ sư Minh Đăng Quang, nửa đêm hứng sương, buổi sáng phơi nắng mặt trời để âm dương điều hòa thân tứ đại. Sư trì chú Đại Bi và niệm Phật cho đến 5 giờ sáng không ngưng nghỉ. Đúng 5 giờ sáng, vệ sinh cá nhân xong, sư chế bình trà uống, mặc dù quy định không được phép uống trà nhưng sư ở một mình trên núi nên vẫn giữ thói quen này. Sau khi nhâm nhi xong ấm trà nhỏ, sư nấu mì gói ăn lót dạ buổi sáng. Khoảng 6 giờ 30 sư bắt đầu đi kinh hành, hít thở không khí trong lành của đỉnh núi buổi sáng sớm. Bắt đầu 7 giờ sáng sư tiếp tục thời khóa công phu đến 10 giờ trưa, sau đó mới bắt đầu chuẩn bị bữa trưa cho mình. Đối với sư chỉ cần nửa chén gạo bắc lên bếp nấu cho đến khi gần cạn thì bỏ một ít rau xanh hoặc củ quả vào đậy lại, một lát sau lấy ra ăn. Người ta thường gọi sư với biệt danh là “ông sư hấp”, vì bất cứ thức ăn gì sư cũng đem hấp rồi ăn, không chiên, xào hay nấu nướng gì hết.

Tuy đời sống giản dị và đơn giản, thanh bần, nhà hàng siêu thị đạm bạc nhưng trong lòng sư thấy an nhàn, thanh thản. Sau mấy chục năm rong ruổi giang hồ, từng gây tạo biết bao nghiệp chướng, sau cuối sư cũng nhận ra niềm hạnh phúc giản đơn trong đời sống thanh bần này. Gã giang hồ ngày nào giờ đã đủ nhã nhặn để ngồi nhâm nhi mùi vị của tách trà buổi sáng và biết chậm rãi chiêm ngưỡng và thưởng thức vị ngon ngọt từ những món rau củ hấp giản đơn. Đôi khi niềm hạnh phúc thật đơn thuần như mùi vị nguyên sơ của món rau củ hấp cơm mỗi ngày. Quá khứ tội lỗi dù không hề chối bỏ, nhưng nếu cứ mãi đau đớn dằn vặt về nó thì chỉ khiến cho tâm càng thêm đau khổ. Chỉ có thực tại ngày hôm nay tu sửa thân mình, sám hối tội lỗi đã qua thì ta mới hoàn toàn có thể sống một cuộc sống ý nghĩa hơn mà thôi.

Nhân vật: Sư Minh Thủy

(Biên tập từ chương trình Phật Pháp Nhiệm Mầu kỳ 1)

Source: thabet
Category: Game